1. Thông tin Luận văn thạc sĩ
- Tên Luận văn: Ảnh hưởng của tỷ lệ sở hữu nhà nước đến khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
- Tác giả: Trần Thị Thúy
- Số trang: 74
- Năm: 2018
- Nơi xuất bản: Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh
- Chuyên ngành học: Tài chính – Ngân hàng
- Từ khoá: tỷ lệ sở hữu nhà nước, kiệt quệ tài chính, mô hình Logit.
2. Nội dung chính
Luận văn “Ảnh hưởng của tỷ lệ sở hữu nhà nước đến khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam” nghiên cứu về tác động của tỷ lệ sở hữu nhà nước đối với nguy cơ kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận văn bắt đầu bằng việc xem xét các lý thuyết liên quan đến kiệt quệ tài chính, thống nhất khái niệm và các dấu hiệu nhận biết một doanh nghiệp đang trong tình trạng này. Theo đó, kiệt quệ tài chính không chỉ là tình trạng phá sản cuối cùng mà là một quá trình từ khi doanh nghiệp mất khả năng thanh khoản đến khi thực sự phá sản. Các dấu hiệu nhận biết doanh nghiệp bị kiệt quệ tài chính được xác định là khi doanh nghiệp có thu nhập trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA) thấp hơn chi phí tài chính trong hai năm liên tiếp; giá trị thị trường của doanh nghiệp sụt giảm trong hai năm liên tiếp; doanh nghiệp bị đình chỉ niêm yết trong ba năm; doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản tự nguyện hay bắt buộc theo luật định; doanh nghiệp được một tổ chức khác tiếp nhận lại về mặt quản lý hoặc sở hữu.
Luận văn lược khảo các nghiên cứu trước đây trên thế giới về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu, đặc biệt là tỷ lệ sở hữu nhà nước, và khả năng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp. Kết quả của các nghiên cứu này không thống nhất, có nghiên cứu cho rằng tỷ lệ sở hữu nhà nước cao giúp giảm nguy cơ kiệt quệ tài chính do doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ và bảo lãnh từ nhà nước, trong khi các nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động kém hiệu quả hơn do chịu sự can thiệp chính trị và thiếu động lực tối đa hóa lợi nhuận, dẫn đến nguy cơ kiệt quệ tài chính cao hơn. Một số nghiên cứu lại cho thấy không có mối liên hệ đáng kể nào. Dựa trên các lý thuyết và kết quả nghiên cứu trước đây, luận văn đưa ra giả thuyết rằng doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao thì khả năng rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính càng thấp.
Để kiểm định giả thuyết, luận văn sử dụng mô hình hồi quy Logit trên dữ liệu bảng của 570 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 2008-2016. Ngoài tỷ lệ sở hữu nhà nước, luận văn còn sử dụng các biến kiểm soát khác như dòng tiền hoạt động kinh doanh trên tổng nợ, tổng nợ trên tổng tài sản, khả năng thanh toán lãi vay, tỷ lệ lạm phát, biến động giá cổ phiếu, quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ vốn hóa thị trường trên tổng nợ. Các biến này được lựa chọn dựa trên các nghiên cứu trước đây và được kỳ vọng là có ảnh hưởng đến khả năng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp. Để khắc phục các hạn chế của mô hình Logit, luận văn sử dụng kỹ thuật chuyển đổi hàm TANH để loại bỏ các giá trị ngoại lai và kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sở hữu nhà nước có tác động ngược chiều và có ý nghĩa thống kê đến khả năng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp, ủng hộ giả thuyết nghiên cứu. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu nhà nước càng cao thì khả năng rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính càng thấp, và ngược lại. Hiệu ứng biên cho thấy khi tỷ lệ sở hữu nhà nước tăng hoặc giảm 1%, khả năng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp sẽ giảm hoặc tăng tương ứng 0.111%. Các biến kiểm soát khác cũng có ảnh hưởng đến khả năng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp, phù hợp với các nghiên cứu trước đây và kỳ vọng của tác giả. Luận văn cũng đánh giá mức độ chính xác của mô hình bằng các thước đo như giá trị AUC, hệ số Gini và tỷ lệ phân loại độ chính xác, cho thấy mô hình có độ tin cậy khá cao. Luận văn kết luận rằng tỷ lệ sở hữu nhà nước là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng kiệt quệ tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam.