Download Luận văn thạc sĩ Tài chính: Mối quan hệ giữa FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ giai đoạn 1986 – 2017
Những yếu tố có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia luôn là vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm đến. Trong đó, các yếu tố như đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu là những yếu tố có sức ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Vì thế, đề tài nghiên cứu này tập trung vào nghiên cứu sự tác động của các yếu tố FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở ba quốc gia: Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ.
Đề tài nghiên cứu áp dụng phương pháp mô hình tự hồi qui phân phối trễ (ARDL Bounds) để tìm ra mối tương quan giữa các yếu tố đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, phương pháp kiểm định nhân quả Granger được sử dụng trong đề tài để nhằm xác định chiều tác động giữa ba biến được nêu ở trên, đồng thời đề tài sử dụng dữ liệu chuỗi theo thời gian của ba biến FDI, xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ từ năm 1096 đến năm 2017.
Kết quả cho thấy, tại cả ba nước nghiên cứu, biến xuất khẩu và biến tăng trưởng kinh tế (biến tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi tổng sản phẩm quốc nội) đều có mối quan hệ dài hạn. Như vậy có thể nói chính sách hướng ngoại bằng việc đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút mạnh vốn đầu tư FDI đã thúc đẩy nền kinh tế tại Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ có những bước tiến tích cực. Tuy nhiên đối với nghiên cứu này, khảo sát ở nước Trung Quốc thì không có dấu hiệu cho thấy FDI tác động đến GDP như tại hai nước còn lại là Việt Nam và Ấn Độ.
Keywords: Phát triển kinh tế, Tăng trưởng kinh tế, Đầu tư nước ngoài, Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Xuất khẩu, Economic development, Economic growth, FDI, Foreign investments, Foreign direct investment, Exports
TÓM TẮT ABSTRACT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ………….1
Đặt vấn đề …………………………………………………………………………………………………1
Mục tiêu nghiên cứu …………………………………………………………………………………..3
Câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………………………………………….3
Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………………………………….4
Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………………………………4
Ý nghĩa nghiên cứu…………………………………………………………………………………….4
Bố cục đề tài ……………………………………………………………………………………………..4
CHƯƠNG 2 MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI, XUẤT KHẨU VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ…………………………………………………………………………………………………..6
2.1 Cơ sở lý thuyết về FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ………………………….6
2.1.1 Lý thuyết cổ điển ……………………………………………………………………………….6
2.1.2 Lý thuyết trọng cầu ( mô hình tăng trưởng của trường phái Keynes) ………..7
2.1.3 Mô hình tăng trưởng tân cổ điển ………………………………………………………….9
2.1.4 Lý thuyết tăng trưởng nội sinh……………………………………………………………11
2.2 Các nghiên cứu trước đây …………………………………………………………………….13
2.2.1 Các nghiên cứu về mối tương quan giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển kinh tế ……………………………………………………………………………………………..13
2.2.2 Các nghiên cứu về mối tương quan giữa xuất khẩu và phát triển kinh tế …20
2.2.3 Các nghiên cứu về mối tương quan giữa xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển kinh tế………………………………………………………………………….27
CHƯƠNG 3:PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU……………………………………………32
3.1 Dữ liệu và mô hình nghiên cứu …………………………………………………………….32
3.2 Phương pháp định lượng………………………………………………………………………33
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ……………………………………………………39
4.1 Kiểm định nghiệm đơn vị …………………………………………………………………….39
4.2 Kết quả mô hình ARDL……………………………………………………………………….40
4.3 Ước lượng hệ số ngắn hạn và dài hạn…………………………………………………….42
4.4 Kiểm định chẩn đoán …………………………………………………………………………..46
4.5 Kiểm định nhân quả Granger………………………………………………………………..48
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN …………………………………………………………………………51
TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ARDL: Autoregressive Distributed Lag – Mô hình phân phối trễ tự hồi quy. EXP: Export – Xuất khẩu.
ELG: Export-Led Economic Growth – Xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng. FDI : Foreign Direct Investment – Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
GDP: Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội.
GDE: Growth-driven Export – Tăng trưởng kinh tế dẫn dắt xuất khẩu.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tóm tắt các nghiên cứu ủng hộ quan điểm đầu tư có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Bảng 2.2: Tóm tắt các nghiên cứu ủng hộ quan điểm đầu tư không có tác động
đến tăng trưởng kinh tế.
Bảng 2.3: Tóm tắt các nghiên cứu ủng hộ quan điểm đầu tư có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Bảng 2.4: Tóm tắt các nghiên cứu ủng hộ quan điểm tăng trưởng kinh tế không dựa vào xuất khẩu.
Bảng 2.5: Tóm tắt các nghiên cứu ủng hộ quan điểm tăng trưởng kinh tế không dựa vào xuất khẩu.
Bảng 3.1: Thống kê mô tả các biến nghiên cứu. Bảng 4.1: Kết quả kiểm định tính dừng.
Bảng 4.2: Kết quả kiểm định ARDL Bounds. Bảng 4.4: Kết quả ước lượng hệ số ngắn hạn. Bảng 4.5: Kết quả ước lượng hệ số dài hạn. Bảng 4.6: Kết quả kiểm định chẩn đoán.
Bảng 4.7: Kết quả Granger-causality.
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 4.1a, b, c: Minh họa lần lượt kết quả độ trễ tối ưu cho mô hình ARDL
với chuỗi dữ liệu của Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc.
Hình 4.2a, b, c: Kết quả kiểm định tính ổn định của hệ số ước lượng với chuỗi dữ liệu của Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc.
Hình 4.3a, b, c: Biểu diễn kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger của
Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc.
TÓM TẮT
Những yếu tố có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của một quốc gia luôn là vấn đề quan trọng được các nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm đến. Trong đó, các yếu tố như đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu là những yếu tố có sức ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Vì thế, đề tài nghiên cứu này tập trung vào nghiên cứu sự tác động của các yếu tố FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở ba quốc gia: Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ.
Đề tài nghiên cứu áp dụng phương pháp mô hình tự hồi qui phân phối trễ (ARDL Bounds) để tìm ra mối tương quan giữa các yếu tố đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, phương pháp kiểm định nhân quả Granger được sử dụng trong đề tài để nhằm xác định chiều tác động giữa ba biến được nêu ở trên, đồng thời đề tài sử dụng dữ liệu chuỗi theo thời gian của ba biến FDI, xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ từ năm 1096 đến năm 2017.
Kết quả cho thấy, tại cả ba nước nghiên cứu, biến xuất khẩu và biến tăng trưởng kinh tế (biến tăng trưởng kinh tế được đại diện bởi tổng sản phẩm quốc nội) đều có mối quan hệ dài hạn. Như vậy có thể nói chính sách hướng ngoại bằng việc đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút mạnh vốn đầu tư FDI đã thúc đẩy nền kinh tế tại Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ có những bước tiến tích cực. Tuy nhiên đối với nghiên cứu này, khảo sát ở nước Trung Quốc thì không có dấu hiệu cho thấy FDI tác động đến GDP như tại hai nước còn lại là Việt Nam và Ấn Độ.
ABSTRACT
The determinants of economic growth have always been an important issue in economic research. In that factors, factors of foreign direct investment, export factors also have an impact on economic growth. Therefore, this research focuses on studying the impacts of FDI, export and economic growth factors in Vietnam, China and India.
The study applied the model ARDL Bounds to find out the correlation between foreign direct investment factors, exports and economic growth.
In addition, Granger causality testing method is used in this study to determine the direction of impact between the three variables (direct investment factors, exports and economic growth) were mentioned above. In addition, the study also use the time series data from 1986 to 2017 of three variables as FDI, exports and economic growth in three countries as Vietnam, China and India.
The results show that, in the long run export variables has a significant positive impact economic growth on three countries: Viet Nam, China and India (economic growth is represented by gross domestic product). Thus, it can be said that the policy of extroverting by promoting exports and attracting FDI capital has pushed the economy in Vietnam, China and India to make positive progress. However, in China, there is no indication that FDI affects GDP as in the other two countries, Vietnam and India.
.
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đặt vấn đề
Việc nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa yếu tố đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), xuất khẩu (EXP) và tăng trưởng kinh tế luôn là trọng tâm của nhiều bài nghiên cứu học thuật. Ba biến được nêu trên là những chỉ số có vai trò quan trọng trong nền kinh tế vì các yếu tố này biểu hiện tình trạng sức khỏe tổng thể của nền kinh tế một quốc gia. Nhiều nhà hoạch định chính sách và nhà kinh tế tin rằng FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng và phát triển kinh tế trong nền kinh tế tiếp nhận nguồn vốn. Tuy nhiên, kết quả thực nghiệm có vẻ không thuyết phục. Và trong nhiều thập kỷ qua, những cuộc tranh luận về đề tài này chủ yếu liên quan đến việc liệu FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế như dự đoán của lý thuyết hay không và tác động này đóng góp như thế nào trong nền kinh tế.
Một số nghiên cứu ủng hộ quan điểm FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng (Yao, 2007; Vu và Noy, 2008) thì cho rằng FDI là một nguồn tài chính lớn và có thể tạo điều kiện cho các nước đang phát triển có thể tiếp cận kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển và tiên tiến. Đồng thời thông qua kênh này, nước chủ nhà sẽ có cơ hội cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, FDI sẽ giúp cải thiện việc làm, kỹ năng công việc, chuyên môn quản lý, thị trường xuất khẩu và doanh thu thuế.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho rằng ngoài những lợi ích đáng kể đến nền kinh tế, các quốc gia tiếp nhận vốn cũng sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề không mong muốn (Kholdy, 1995; Duasa, 2007; Mutafoglu, 2012). FDI có thể tạo thêm áp lực cạnh tranh cho nhiều doanh nghiệp địa phương tại các thị trường nội địa, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu trường hợp FDI không tập trung vào lĩnh vực xuất khẩu. Ngoài ra, việc các doanh nghiệp FDI chuyển lợi nhuận về nước cũng làm suy giảm cán cân thanh toán. Một số tác giả thậm chí còn cho rằng FDI có thể có tác động lớn đến việc hạn chế đầu tư trong nước. Trong viễn cảnh này, ảnh hưởng của FDI là khá mơ hồ.
2
Bên cạnh FDI, xuất khẩu cũng là một yếu tố quyết định đáng kể đến tăng trưởng. Dựa trên hai giả thuyết nền tảng là xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng (ELG) và tăng trưởng dẫn dắt xuất khẩu (GDE), nhiều tác giả đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để có câu trả lời chính xác cho mối tương quan giữa hai biến này. Một số nghiên cứu ủng hộ vai trò của xuất khẩu với tăng trưởng (Tyler, 1981; Chow, 1987). Xuất khẩu theo đó được coi là nguồn ngoại hối quan trọng nhất, được các nước đang phát triển chú trọng nhất để giảm bớt vấn đề cán cân thanh toán và giảm thất nghiệp thông qua việc tạo ra cơ hội việc làm. Chính sách cải cách mở cửa chú trọng xuất khẩu cũng tạo động lực để thu hút nguồn FDI công nghệ cao, thúc đẩy hoạt động sản xuất trong nước đạt quy mô cao, giúp quốc gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kinh nghiệm của nhiều nền kinh tế phát triển, một số nền kinh tế mới nổi và điển hình hơn là những con rồng châu Á như Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc đã đưa ra ví dụ điển hình về tầm quan trọng của xuất khẩu. Bên cạnh các nghiên cứu ủng hộ quan điểm xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng (ELG), vẫn có những nghiên cứu khác ủng hộ quan điểm tăng trưởng dẫn dắt xuất khẩu (GDE) như Jung và Marshall (1985), Ahmad và Kwan (1991).
Việc nghiên cứu thực hiện dựa trên dữ liệu của ba nước Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc vì các nước này là các nước thuộc khu vực Châu Á. Trong những năm gần đây, Châu Á là một trong những khu vực kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, điển hình như Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan. Được cho là bốn con hổ hay 4 con rồng nhỏ Châu Á. Một trong những lý do của việc tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở khu vực này là các nước này áp dụng chính sách hướng ngoại bao gồm mở rộng xuất khẩu và mở cửa cho FDI. Mặc khác có khá ít tài liệu nghiên cứu về vấn đề này tập trung vào các nước Châu Á, với những kết quả hỗn hợp không rõ ràng về mối quan hệ của các biến FDI, xuất khẩu và GDP. Ngoài ra, cả ba quốc gia Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ đều là những quốc gia chú trọng thúc đấy FDI, xuất khẩu cũng như đều có những cuộc cải cách kinh tế (Việt Nam 1986, Trung Quốc
1978, Ấn Độ 1991) và cũng có sự tương đồng về mô hình tăng trưởng. Đồng thời,
cũng có nhiều bài nghiên cứu riêng lẻ được thực hiện cho từng quốc gia này trong
3
khuôn khổ mối quan hệ hai biến, tuy nhiên lại có khá ít các nghiên cứu xem xét sự
giống và khác nhau trong mối quan hệ nhân quả của cả ba biến FDI, EXP và GDP.
Những lý do trên cũng chính là ý tưởng của đề tài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ giai đoạn 1986 – 2017”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mặc dù Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ đều là những quốc gia chú trọng FDI, thúc đẩy xuất khẩu cũng như cũng đều có những cuộc cải cách kinh tế và cũng có sự tương đồng về mô hình tăng trưởng. Tuy nhiên ở các nghiên cứu thực tế trước đây, các quốc gia khác nhau thường có kết quả không giống nhau cho dù có sử dụng cùng kỹ thuật trên cơ sở dữ liệu tương tự và trong khoảng thời gian tương tự. Vì kết quả nghiên cứu còn phụ thuộc vào các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế. Do đó, bài nghiên cứu này sẽ kiểm tra tác động của các yếu tố FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở ba quốc gia Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ để xem mức độ tác động đó như thế nào và có mối quan hệ nhân quả giữa các biến này ở tất cả các nước nghiên cứu hay không.
Câu hỏi nghiên cứu
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài nghiên cứu hướng đến trả lời các câu hỏi cụ thể sau:
1. Có tồn tại mối tương quan giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tăng trưởng kinh tế tại các nước Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ trong giai đoạn nghiên cứu 1986-2017 không?
2. Có tồn tại mối tương quan giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế tại các
nước Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ trong giai đoạn nghiên cứu 1986-
2017 không?
3. Có tồn tại mối tương quan giữa dòng vốn FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế tại các nước Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ trong giai đoạn nghiên cứu 1986-2017 không?
4
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu lựa chọn phương pháp ARDL theo đề xuất của Pesaran và cộng sự (2001) để chỉ ra rằng: liệu có tồn tại hay không của mối quan hệ dài hạn giữa ba biến đầu tư trực tiếp, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Đồng thời cũng xem xét sự đóng góp của xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tăng trưởng kinh tế và ngược lại.
Ngoài ra, bài viết còn sử dụng phương pháp kiểm định nhân quả Granger do Toda và Yamamoto (1995) giới thiệu để kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa FDI, EXP, GDP và chiều tác động của chúng.
Phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu chọn Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ là những nước đã cho thấy sự phát triển nhanh chóng trong thương mại, FDI và thu nhập khi mở cửa hướng ngoại sau nhiều năm đàn áp kinh tế. Đồng thời, bài nghiên cứu cũng chọn giai đoạn phân tích là từ năm 1986 đến năm 2017.
Ý nghĩa nghiên cứu
Nghiên cứu đã góp phần xác định mức độ ảnh hưởng của FDI, xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế và chiều tác động của các nhân tố này ở các quốc gia đang chuyển mình phát triển như Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ. Thông qua đó, nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của FDI, xuất khẩu trong tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế cũng như tầm quan trọng của các yếu tố vĩ mô, thể chế chính trị trong việc gia tăng khả năng hấp thụ vốn FDI vào các quốc gia. Từ nhận thức đó, sẽ tạo tiền đề cho các nghiên cứu sau này về các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế khi đề cập dến nhiều nhân tố hơn nữa.
Bố cục đề tài
Đề tài được chia thành năm phần.
Chương 1: Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu, lý do thực hiện nghiên cứu, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu.
5
Chương 2: Trình bày tổng quan về lý thuyết đồng thời chương này cũng trình bày những nghiên cứu thực nghiệm trước đây về mối quan hệ giữa FDI, xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Chương 3: Mô tả dữ liệu và các phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Trình bày các kết quả chính.
Chương 5: Nhấn mạnh những kết luận quan trọng từ đề tài nghiên cứu, đồng thời nêu lên những hạn chế và gơi ý đề tài mở rộng chuyên sâu hơn.
6
CHƯƠNG 2 MỐI QUAN HỆ GIỮA FDI, XUẤT KHẨU VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1 Cơ sở lý thuyết
Tăng trưởng kinh tế được diễn đạt thông qua các mô hình tăng trưởng kinh tế tiêu biểu như: Lý thuyết về mô hình tăng trưởng cổ điển, mô hình tăng trưởng của Keynes, mô hình tân cổ điển và mới nhất là mô hình tăng trưởng nội sinh ở cuối thế kỷ XX.
2.1.1 Lý thuyết cổ điển
Đại diện tiêu biểu nhất của lý thuyết cổ điển về thương mại quốc tế chính là lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo. Các lý thuyết này nhấn mạnh vai trò của chuyên môn hóa sản xuất, lợi thế so sánh và hiệu quả sản xuất trong hoạt động thương mại quốc tế.
Adam Smith là nhà kinh tế học đầu tiên đưa ra những lập luận và cơ sở giải thích cho sự ra đời của trao đổi và thương mại quốc tế. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối được Adam Smith khởi xướng trong tác phẩm nổi tiếng “Của cải của các dân tộc (The Wealth of Nations)” được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1776. Theo ông, các nước nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế tuyệt đối. Chuyên môn hóa sẽ giúp tăng năng suất và do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi đó, tất cả các quốc gia đều có lợi ích từ trao đổi thương mại quốc tế. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối không chỉ giúp mô tả hướng chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi giữa các quốc gia, mà còn được coi là các công cụ để các quốc gia tăng phúc lợi. Mô hình thương mại này có thể giúp giải thích được một phần của thương mại quốc tế, tuy nhiên vẫn chưa giải thích được lý do tại sao thương mại quốc tế vẫn có thể diễn ra khi một nước hoàn toàn không có lợi thế tuyệt đối đối với mọi mặt hàng.
Năm 1817, David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế tương đối giúp củng cố thêm những luận điểm về tác động của thương mại quốc tế, trong đó có xuất khẩu, tới thu nhập của các quốc gia, đồng thời khắc phục một phần hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Ông cho rằng, một quốc gia thậm chí sản xuất tất cả các sản phẩm
7
đều kém hiệu quả hơn quốc gia kia, họ vẫn có thể thu được lợi ích từ thương mại. Mỗi quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà mình có lợi thế tương đối. Lợi thế tương đối trong sản xuất sản phẩm của một quốc gia thể hiện ở hiệu quả sản xuất cao tương đối hay giá cả sản xuất thấp hơn tương đối so với quốc gia kia. Nhờ vậy, lợi thế từ chuyên môn hóa được khai thác triệt để hơn cũng như có thể tạo ra mức sản lượng lớn hơn so với khi chưa có thương mại quốc tế và kết quả là tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế sẽ giúp các ngành xuất khẩu khai thác lợi thế kinh tế theo qui mô, tăng năng suất và giảm chi phí, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc tế của hàng xuất khẩu và qua đó giúp thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
2.1.2 Lý thuyết trọng cầu (mô hình tăng trưởng của trường phái
Keynes)
Lý thuyết kinh tế của Keynes được coi là lý thuyết trọng cầu vì ông đánh giá cao vai trò của tiêu dùng và trao đổi, coi tiêu dùng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết. Theo ông, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và trì trệ trong nền kinh tế là do cầu tiêu dùng giảm, do đó cầu có hiệu quả giảm (tiêu dùng tăng chậm hơn mức tăng thu nhập do khuynh hướng tiết kiệm, ưa chuộng tiền mặt,… vì thế cầu tiêu dùng giảm và do đó cầu có hiệu quả giảm). Do đó, cần nâng cầu tiêu dùng, kích thích cầu có hiệu quả. Theo đó, gia tăng xuất khẩu là một trong những nhân tố có thể thúc đẩy tăng tổng cầu và vì vậy sẽ chắc chắn dẫn đến tăng sản lượng. Trong mô hình này, tổng cầu dịch chuyển theo những thay đổi của xuất khẩu sẽ có ảnh hưởng khuếch đại đến sản lượng qua hiệu ứng số nhân, tương tự như tác động của đầu tư tới tăng trưởng sản lượng.
Quan điểm này tiếp tục được phát triển thành những mô hình lý thuyết mới nhằm phân tích mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Thirlwall (1979) xây dựng mô hình tăng trưởng ràng buộc bởi cán cân thanh toán (Balance of Payments Constrained Growth Model) dựa trên lập luận rằng: ràng buộc chủ yếu của tổng cầu ở các nền kinh tế mở là cán cân thanh toán. Nếu cán cân thanh toán của một quốc gia ở trong tình trạng xấu thì tổng cầu sẽ bị cắt giảm, khi đó nguồn cung không được sử
8
dụng một cách đầy đủ, không thu hút được đầu tư, công nghệ chậm phát triển, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ trở nên kém hấp dẫn hơn so với hàng hóa nước ngoài, do đó, tiếp tục làm cán cân thanh toán trở nên xấu hơn. Cứ như vậy, quá trình này lại tái diễn thành một vòng luẩn quẩn. Ngược lại, khi cán cân thanh toán được cải thiện sẽ giúp mở rộng tổng cầu, theo đó sẽ kích thích đầu tư, tăng vốn và thúc đẩy tiến bộ công nghệ, tạo thêm nhiều việc làm, các yếu tố sản xuất sẽ dịch chuyển từ khu vực kém hiệu quả sang khu vực hiệu quả hơn…, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Từ lập luận đó, Thirlwall chỉ ra rằng không có quốc gia nào tăng trưởng nhanh hơn tốc độ tăng khi ở trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán. Điều này ngụ ý rằng tăng trưởng kinh tế bị ràng buộc bởi trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán. Khi xuất khẩu tăng trưởng hoặc hệ số co giãn của nhập khẩu theo thu nhập giảm thì nền kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh hơn trong dài hạn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán theo
Thirlwall được thể hiện bởi phương trình sau:
g = x/π
Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở trạng thái cân bằng của cán cân thanh toán x: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
π: Hệ số co giãn của nhập khẩu theo thu nhập
Tăng cường xuất khẩu cũng có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ phía cầu theo một số kênh dẫn khác. Chẳng hạn, Awokuse (2003) khẳng định, mở rộng xuất khẩu có thể là một nhân tố kích thích tăng trưởng sản lượng một cách trực tiếp với vai trò là một bộ phận cấu thành của tổng cầu, cũng như gián tiếp thông qua phân bổ nguồn lực hiệu quả, khai thác hiệu quả kinh tế theo quy mô và kích thích cải tiến kỹ thuật do sự cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Tăng cường xuất khẩu có thể cung cấp ngoại hối tài trợ cho nhập khẩu hàng hóa trung gian và hàng hóa vốn, mà đến lượt nó, làm tăng sự hình thành vốn, góp phần tích cực đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất nội địa và thúc đẩy tăng trưởng. McKinnon (1964), Balassa (1978), Esfahani (1991), Buffie (1992) cũng có cách nhìn tương tự về vấn đề này.
9
2.1.3 Mô hình tăng trưởng tân cổ điển
Robert Solow sinh năm 1987, ông là giáo sư được tặng giải Nobel kinh tế về những nghiên cứ thực nghiệp có đóng góp xuất sắc trong lý thuyết tăng trưởng. Điều đặc biệt là ông đã đưa ra cách lý giải về nguồn gốc của tăng trưởng. Trong mô hình đầu tiên (mô hình gốc), Solow phân tích mô hình cơ bản dựa vào mô hình Cobb – Doulas với hai yếu tố lao động và đầu tư, tiết kiệm, sau đó ông mới trình bày mô hình tổng quát với yếu tố công nghệ tác động tới tăng trưởng như thế nào. Mô hình này của ông còn được gọi là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, vì mô hình không đề cập đến các nhân tố bên trong, kết quả của tăng trưởng kinh tế sẽ hội tụ về một tốc độ nhất định, ở đó gọi là trạng thái bền vững. Chỉ các yếu tố bên ngoài như công nghệ, tốc độ tăng trưởng lao động mới thay đổi được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở trạng thái bền vững. Nghiên cứu này của Solow cho đến hiện tại vẫn còn xảy ra nhiều cuộc tranh luận, tuy vậy, mô hình tăng trưởng của Solow vẫn được đánh giá là một trong những mô hình có tác động lớn trong hệ thống lý thuyết tăng trưởng.
Mô hình này dựa trên các giả định như là giá cả linh hoạt trong dài hạn. Đây là một quan điềm của kinh tế học tân cổ điển. Khi này, lao động L được sử dụng hoàn toàn và nền kinh tế tăng trưởng hết mức tiềm năng. Đồng thời toàn bộ tiết kiệm sẽ chuyển hóa thành đầu tư.
Mức sản lượng thực tế Y phụ thuộc vào lực lượng L, lượng tư bản K và năng suất lao động A. Từ đó, ta có một hàm sản xuất vĩ mô Y =F(A,L,K). Giả thuyết là hàm này có dạng Cobb – Doulas như sau:
Nền kinh tế đóng cửa và không có sự can thiệp của chính phủ, có sự khấu hao tư bản. Khi có đầu tư mới, trữ lượng vốn tăng lên nhưng đồng thời, vốn cũng bị khấu hao theo thời gian. Khi đó lượng vốn mới có sẽ bằng lượng vốn mới tạo ra từ đầu tư trừ đi các khoản hao mòn.
Tư bản K và lao động L tuân theo quy tắc lợi tức biên giảm dần, có nghĩa là khi tăng K thì ban đầu Y tăng rất nhanh đến một lúc nào đó Y tăng chậm lại.
10
Dựa trên các giả định trên, mô hình tăng trưởng của Solow đã chỉ ra trạng thái dừng của nền kinh tế. Trạng thái dừng là điểm cân bằng mà tại đó lượng vốn giữ nguyên không đổi, bởi vì lượng đầu tư để tạo ra vốn mới mỗi năm chỉ đủ để bù trừ phần vốn bị hao mòn. Khi vốn không tăng thì sản lượng cũng không tăng. Vì vậy ở trạng thái dừng, lượng vốn trên một lao động là cố định. Vốn và lao động không tăng thì tổng sản lượng vẫn là cố định. Đây là hệ quả của hàm sản xuất có hiệu suất biên giảm dần. Nếu vốn tiếp tục tăng, sản lượng sẽ tăng nhưng với tốc độ giảm dần. Do vậy, thu nhập dành cho tiết kiệm cũng tăng với tốc độ giảm dần. Vì vậy luôn luôn tồn tại một “trạng thái dừng” của nền kinh tế, nơi mà mọi biến số đều hội tụ về một giá trị cố định. Như vậy, mô hình Solow dự đoán rằng những nước có tăng trưởng dân số cao hơn sẽ có mức vốn và thu nhập trên lao động thấp hơn trong dài hạn. Đồng thời, mô hình cũng giải thích được sự tăng trưởng đều đặn của một số nước là do tốc độ tăng trưởng về công nghệ.
Tư tưởng tân cổ điển đã trở thành nền tảng cơ sở cho các nghiên cứu tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm sau đó. Đặc biệt nó đã thúc đẩy các nghiên cứu về tác động của thương mại quốc tế (trong đó có xuất khẩu) đến tăng trưởng kinh tế thông qua việc mở rộng mô hình tân cổ điển bằng cách nới lỏng các giả thiết của mô hình. Trong các nghiên cứu thực nghiệm theo mô hình tân cổ điển mở rộng, xuất khẩu đã được đưa vào hàm sản xuất thông qua năng suất nhân tố tổng hợp. Họ cho rằng, xuất khẩu tác động đến tăng trưởng kinh tế thông qua tăng năng suất.
Theo Feder (1983), xuất khẩu tăng trưởng có thể ảnh hưởng đến năng suất nhân tố tổng hợp thông qua ảnh hưởng lên phần còn lại của nền kinh tế. Trong nghiên cứu của mình, Feder chia nền kinh tế làm hai khu vực, đó là khu vực xuất khẩu (X) và khu vực phi xuất khẩu (N). Khi đó, hàm sản xuất có dạng:
Y = N +X
Trong đó :
N = F(KN, LN, X) X = G(KX, LX)
Với K là vốn, L là lực lượng lao động.
11
Giả sử có sự khác biệt về năng suất nhân tố biên giữa hai khu vực, ký hiệu là
δ, khi đó: δ = (GK/FK) -1 = (GL/FL) – 1.
Trong đó : GK và GLlà năng suất cận biên của vốn và lao động ở khu vực xuất khẩu, FK và FL là năng suất cận biên của vốn và lao động ở khu vực phi xuất khẩu. Nếu δ= 0, năng suất cận biên là cân bằng giữa hai khu vực. Nếu δ> 0, năng suất cận biên trong khu vực xuất khẩu là cao hơn khu vực phi xuất khẩu.
Hàm sản xuất tân cổ điển theo cách tiếp cận của Feder được xác định như sau:
dY/Y = a.(I/Y) + b.(dL/L) + [δ/(1+δ) + Fx].(dX/X).(X/Y) (1.5)
Trong đó:
dY/Y: Tốc độ tăng GDP
I/Y: Tỷ lệ giữa đầu tư với GDP dL/L: Tốc độ tăng lực lượng lao động
Fx: Ảnh hưởng cận biên của xuất khẩu đối với sản lượng của khu vực phi xuất khẩu. X/Y: Tỷ lệ giữa xuất khẩu với GDP dX/X: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
Ở đây, trong mô hình theo cách tiếp cận tổng cung, tăng trưởng GDP sẽ phụ thuộc vào sự phân bổ tích lũy các yếu tố lao động, vốn và xuất khẩu. Ngoài ra, sẽ có sự dịch chuyển các yếu tố từ khu vực phi xuất khẩu có năng suất thấp sang khu vực xuất khẩu có năng suất cao.
Tóm lại, bên cạnh những hạn chế do mô hình được đặt trong khá nhiều giả định, lý thuyết tăng trưởng của Solow vẫn đóng một vai trò quan trọng trong các học thuyết về tăng trưởng và mở ra nhiều vận dụng cho những nghiên cứu trong tương lai. Trong đó, một số luận điểm đã được chú ý và tiếp tục được khai thác trong những nghiên cứu về sau.
2.1.4 Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Ở giai đoạn sau của lý thuyết tân cổ điển, những đại diện cho lý thuyết tăng trưởng mới như Romer (1986), Rebelo (1991) và Lucas (1988) đã giả định rằng tiến bộ công nghệ là nội sinh, trái với lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển dựa trên giả định tiết kiệm, cải tiến công nghệ, tăng trưởng dân số là ngoại sinh. Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng sản phẩm biên của vốn là không đổi trái với lý thuyết tân cổ điển giả định vốn có năng suất biên giảm dần.