1. Thông tin Luận văn thạc sĩ
- Tên Luận văn: Hiệu quả tài chính các mô hình sản xuất nông nghiệp trên vùng xâm nhập mặn và chưa bị xâm nhập mặn trên địa bàn huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang
- Tác giả: Ngô Hen
- Số trang: 93
- Năm: 2017
- Nơi xuất bản: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
- Chuyên ngành học: Quản lý kinh tế
- Từ khoá: Hiệu quả tài chính, mô hình sản xuất nông nghiệp, xâm nhập mặn, Gò Quao, Kiên Giang
2. Nội dung chính
Luận văn “Hiệu quả tài chính các mô hình sản xuất nông nghiệp trên vùng xâm nhập mặn và chưa bị xâm nhập mặn trên địa bàn huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang” của tác giả Ngô Hen tập trung nghiên cứu, so sánh hiệu quả tài chính và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các mô hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội ở Đồng bằng sông Cửu Long, một địa phương chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn. Luận văn hướng đến mục tiêu đề xuất các chính sách phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả tài chính cho các nông hộ trong bối cảnh biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn ngày càng gia tăng. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ người nông dân lựa chọn mô hình sản xuất phù hợp, tối ưu hóa nguồn lực và thích ứng với điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt. Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Phương pháp nghiên cứu của luận văn chủ yếu dựa trên phương pháp định lượng Phân loại dữ liệu định tính và định lượng. Tác giả đã tiến hành khảo sát 193 hộ nông dân trên địa bàn huyện Gò Quao, bao gồm các hộ ở vùng bị xâm nhập mặn (xã Thủy Liễu, Thới Quản) và vùng chưa bị xâm nhập mặn (xã Định An, Vĩnh Hòa Hưng Bắc). Dữ liệu thu thập Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp trong nghiên cứu khoa học được phân tích bằng các công cụ thống kê như kiểm định T-test, phân tích phương sai (ANOVA) để so sánh hiệu quả tài chính giữa các mô hình sản xuất. Mô hình hồi quy cũng được sử dụng để xác định các yếu tố kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông hộ. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp thống kê mô tả để phân tích đặc điểm kinh tế – xã hội của các hộ gia đình được khảo sát, từ đó đưa ra những nhận định tổng quan về tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể về hiệu quả tài chính giữa các mô hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gò Quao. Cụ thể, mô hình “Tôm – tôm” có lợi nhuận trung bình cao nhất (107,9 triệu đồng/ha/năm), tiếp theo là mô hình “Lúa – màu” (69,8 triệu đồng/ha/năm), “Lúa – tôm” (25,1 triệu đồng/ha/năm) và “Lúa – lúa” (19,3 triệu đồng/ha/năm). Tuy nhiên, xét về tỷ suất lợi nhuận trên chi phí (BCR), mô hình “Lúa – màu” lại có hiệu quả cao nhất (0,75 lần), tiếp theo là “Lúa – tôm” (0,66 lần), “Lúa – lúa” (0,45 lần) và “Tôm – tôm” (0,40 lần). Điều này cho thấy, mặc dù mô hình “Tôm – tôm” mang lại lợi nhuận cao, nhưng chi phí đầu tư cũng rất lớn, do đó hiệu quả sử dụng vốn không cao bằng các mô hình khác. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các yếu tố như trình độ học vấn của chủ hộ, giới tính, diện tích canh tác, tập huấn kỹ thuật và tiếp cận tín dụng chính thức đều có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận của nông hộ Các nhân tố ảnh hưởng toi hiệu quả quản trị tài chính trong doanh nghiệp.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gò Quao. Các khuyến nghị này tập trung vào việc lựa chọn mô hình canh tác phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho nông hộ, tạo điều kiện tiếp cận vốn tín dụng chính thức và nâng cao trình độ dân trí. Luận văn cũng đề xuất cần có chính sách quy hoạch lại sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với tình hình xâm nhập mặn, đồng thời khuyến khích nông hộ liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị. Tác giả cũng thừa nhận những hạn chế của nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo, như mở rộng quy mô mẫu, địa bàn nghiên cứu và tính toán thêm các chi phí môi trường, chi phí xã hội khi đánh giá hiệu quả tài chính.