1. Thông tin đề tài
- Tên Đề tài: THÀNH PHẦN PHIÊU SINH THỰC VẬT Ở VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG
- Tác giả: Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Thị Tú Như, Âu Văn Hóa, Huỳnh Trường Giang, Nguyễn Minh Đông và Trần Văn Dũng
- Số trang file pdf: 11
- Năm: 2022
- Nơi xuất bản: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
- Chuyên ngành học: Thủy sản, Nông nghiệp
- Từ khoá: Đất ngập nước, mật độ, tảo, thành phần loài, tỉnh An Giang
2. Nội dung chính
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu xác định tính đa dạng thành phần loài và mật độ của tảo ở vùng đất ngập nước thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, nơi có các hoạt động canh tác lúa khác nhau. Mẫu tảo được thu tại 6 điểm ở xã Lương An Trà, chia thành hai nhóm: vùng canh tác lúa 2 vụ/năm (TV1) và vùng canh tác lúa 3 vụ/năm (TV2). Kết quả cho thấy sự hiện diện của 95 loài tảo thuộc 6 ngành khác nhau. Trong đó, ngành tảo lục chiếm ưu thế với 39 loài, tiếp theo là tảo mắt và tảo khuê, mỗi ngành có 22 loài. Các ngành tảo còn lại như tảo lam, tảo giáp và tảo vàng ánh có số lượng loài ít hơn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tổng số loài tảo ở nhóm TV1 có xu hướng cao hơn so với nhóm TV2, tuy nhiên, mật độ tảo trung bình lại cao hơn ở nhóm TV2. Vùng đất tỉnh An Giang này có tiềm năng phát triển du lịch, bạn có thể tìm hiểu thêm về Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Thành phần loài tảo biến động qua các đợt khảo sát, với số lượng loài dao động từ 58 đến 86. Tảo lục luôn chiếm ưu thế trong cả ba đợt. Một số loài tảo như Phormidium tenue, Pseudanabaena sp. (tảo lam), Lepocinclis ovum, Trachelomonas volvocina (tảo mắt), Eunotia sp., Navicula sp., Nitzschia acicularis (tảo khuê) xuất hiện với tần suất cao. Có 40 loài tảo được tìm thấy ở cả ba đợt khảo sát, trong khi một số loài chỉ xuất hiện ở một số đợt nhất định, cho thấy sự thay đổi về thành phần loài theo thời gian và điều kiện môi trường. Sự khác biệt về thành phần loài và mật độ tảo giữa các nhóm TV1 và TV2 cho thấy ảnh hưởng của các hoạt động canh tác lúa đến hệ sinh thái tảo. Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, bạn có thể đọc thêm về Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Mật độ tảo tại các điểm thu mẫu biến động lớn, từ 38.686 đến 1.500.763 cá thể/L. Mật độ tảo thường cao hơn ở nhóm TV2 so với nhóm TV1. Các loài tảo lam và tảo mắt thường chiếm ưu thế về mật độ ở nhiều điểm thu mẫu. Một số loài như Pseudanabaena tenuis, Lepocinclis ovum, Pinnularia sp. có mật độ cao, cho thấy khả năng thích nghi của chúng với môi trường nước có mức độ dinh dưỡng cao. Mật độ tảo cao thường được ghi nhận trong thời gian trồng lúa, đặc biệt sau khi bón phân, cho thấy tác động của hoạt động canh tác đến sự phát triển của tảo. Để hiểu rõ hơn về cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, bạn có thể tham khảo bài viết Khái niệm cơ cấu cây trồng.
Các chỉ số đa dạng sinh học như Shannon (H’) và Simpson (D) cho thấy sự đa dạng thành phần loài và mật độ tảo khác nhau giữa các điểm thu mẫu. Chỉ số H’ dao động từ 1,7 đến 2,5, chỉ số D từ 0,7 đến 0,9, và chỉ số đồng đều Pielou’s (J’) từ 0,4 đến 0,7. Các chỉ số này thường cao hơn ở nhóm TV1 so với nhóm TV2, cho thấy tính đa dạng thành phần loài tảo cao hơn và sự phân bố đồng đều hơn ở vùng canh tác lúa 2 vụ/năm. Dựa trên chỉ số H’, chất lượng nước ở khu vực nghiên cứu được đánh giá là từ ô nhiễm trung bình đến ô nhiễm nặng.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mối tương quan giữa các thông số chất lượng nước và thành phần, mật độ tảo. Ví dụ, pH tương quan thuận với số loài tảo lục, tảo khuê và tảo giáp, nhưng tương quan nghịch với mật độ tảo mắt. Độ đục và hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS) tương quan thuận với số loài tảo lam và chỉ số H’. Hàm lượng oxy hòa tan (DO) tương quan nghịch với số loài và mật độ tảo mắt. Những tương quan này cung cấp thông tin về ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến sự phân bố và phát triển của tảo. Nghiên cứu kết luận rằng hoạt động canh tác lúa khác nhau ảnh hưởng đến thành phần loài và mật độ tảo ở vùng đất ngập nước thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.