1. Thông tin Luận văn thạc sĩ
- Tên Luận văn: Xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước cho mục đích cổ phần hóa – Tình huống Công ty TNHH Thuốc lá Hải Phòng
- Tác giả: Dương Thành Đạt
- Số trang: 109
- Năm: 2017
- Nơi xuất bản: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh https://luanvans.com/tailieu/bo-273-luan-van-thac-si-truong-dai-hoc-kinh-te-thanh-pho-ho-chi-minh-nam-2020/
- Chuyên ngành học: Chính sách công
- Từ khoá: Định giá doanh nghiệp, Cổ phần hóa, Doanh nghiệp nhà nước, Tài sản vô hình, Công ty TNHH Thuốc lá Hải Phòng, Chiết khấu dòng tiền, Phương pháp tài sản
2. Nội dung chính
Luận văn tập trung vào vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cho mục đích cổ phần hóa (CPH), một khâu quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công của chương trình CPH. Luận văn chỉ ra rằng, kết quả xác định giá trị DNNN thường gây tranh cãi, đặc biệt là những DNNN có kết quả kinh doanh tốt https://luanvanaz.com/cac-chi-tieu-do-luong-hieu-qua-hoat-dong-cua-doanh-nghiep.html, được thừa hưởng những lợi ích/tài sản vô hình từ cơ chế đặc thù của nhà nước. Thực tế tại Việt Nam, phương pháp tài sản thường được sử dụng, tuy nhiên luận văn phân tích, so sánh và chỉ ra những điểm bất hợp lý của các phương pháp định giá theo văn bản hiện hành và ưu nhược điểm của các phương pháp theo thông lệ quốc tế khi áp dụng cho những DNNN có đặc điểm nêu trên, sử dụng tình huống cụ thể tại Công ty TNHH Thuốc lá Hải Phòng (HPTC).
Luận văn phân tích các phương pháp định giá DNNN theo thông lệ quốc tế và theo quy định của Việt Nam, đặc biệt là Thông tư 127/2014/TT-BTC (TT127). Phương pháp tài sản theo TT127 được sử dụng phổ biến nhưng có nhiều hạn chế khi ước tính giá trị DNNN có kết quả kinh doanh tốt, sở hữu nhiều tài sản vô hình. Luận văn chỉ ra những bất cập trong quy định về định giá tài sản vô hình (TSVH), lợi thế kinh doanh và quyền sử dụng đất. Cụ thể, việc ước tính giá trị thương hiệu https://luanvanaz.com/chuc-nang-cua-thuong-hieu.html chỉ dựa trên chi phí đầu tư trong 5 năm gần nhất là không phù hợp, bỏ qua giá trị tích lũy lâu dài. Việc sử dụng giá trị còn lại trên sổ sách kế toán để xác định giá trị TSVH cũng không phản ánh đúng giá trị thực tế. Ngoài ra, việc bỏ qua giá trị quyền sử dụng đất (QSDĐ) là đất thuê trả tiền hàng năm cũng làm giảm giá trị DNNN. Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) theo TT127 có những quy định cứng nhắc về tỷ lệ chia cổ tức và phụ phí rủi ro, dẫn đến kết quả không chính xác. Luận văn cũng nêu rõ các yếu tố đặc thù của DNNN ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp, bao gồm tài sản, tính minh bạch thông tin và cơ cấu sở hữu sau CPH.
Luận văn sử dụng tình huống HPTC để minh họa những bất cập của các phương pháp định giá. HPTC là một DNNN sản xuất thuốc lá điếu, có kết quả kinh doanh tốt và sở hữu nhiều TSVH, như quyền sử dụng đất có vị trí đắc địa, giấy phép sản xuất kinh doanh trong ngành thuốc lá, quan hệ đối tác đặc biệt với tập đoàn British American Tobacco (BAT). Luận văn phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của HPTC và lựa chọn phương pháp định giá phù hợp. Phương pháp tài sản theo TT127 không phù hợp vì không đánh giá đúng giá trị TSVH của HPTC. Phương pháp DCF được đánh giá là phù hợp hơn để ước tính giá trị nội tại của HPTC. Luận văn xây dựng mô hình FCFF để định giá HPTC, với các giả định về tốc độ tăng trưởng, tỷ suất chiết khấu (WACC). Kết quả định giá theo mô hình FCFF cho thấy giá trị doanh nghiệp của HPTC cao hơn so với phương pháp tài sản. Luận văn cũng thực hiện phân tích độ nhạy để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đến kết quả định giá. Phân tích độ nhạy cho thấy, ngay cả trong kịch bản xấu nhất, giá trị ước tính theo phương pháp DCF vẫn cao hơn so với sử dụng phương pháp tài sản theo TT127 cộng thêm giá trị quyền thuê đất.
Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra các gợi ý chính sách nhằm hoàn thiện khung pháp lý về định giá DNNN cho mục đích CPH. Cần mở rộng quy định định giá cho các TSVH khác chưa được hạch toán trong sổ sách kế toán và thực hiện đánh giá lại giá trị TSVH thay vì sử dụng giá trị còn lại trên sổ sách nếu việc đánh giá theo giá thị trường lại là khả thi. Cần xem xét lại phương pháp ước tính giá trị thương hiệu dựa trên chi phí đầu tư thương hiệu 5 năm; phương pháp DCF là phương pháp hợp lý nhất đến thời điểm hiện tại, có thể sử dụng để ước tính giá trị nội tại của DNNN có kết quả kinh doanh tốt, tiềm năng tăng trưởng cao, sở hữu nhiều TSVH. Kết quả của phương pháp DCF nên được sử dụng làm căn cứ tham khảo hỗ trợ cho việc ra quyết định thay vì là một mức giá bán mục tiêu cứng nhắc. Phương pháp tài sản với ưu điểm về tính trực quan có thể sử dụng kết hợp làm giá trị tham chiếu chặn dưới cho giá bán cổ phần. Không nên đặt ra các quy định cứng nhắc về giả định của phương pháp DCF, đây là công việc chuyên môn của tổ chức tư vấn; Cần bổ sung và thống nhất định nghĩa về “doanh nghiệp nhà nước” để tránh tạo ra kẽ hở trong việc triển khai thực hiện.