1/ Thông tin bài báo:
- Tên bài báo: TÁC ĐỘNG CỦA XÂM NHẬP VÀ THIÊN TAI LÊN CÁC MÔ HÌNH CANH TÁC NÔNG – LÂM NGHIỆP VÙNG U MINH HẠ
- Tác giả: Lê Văn Dũ, Trương Hoàng Đan, Lê Anh Tuấn, Võ Quốc Thành, Trần Mai Hùng
- Số trang: 61-71
- Năm: 2022
- Nơi xuất bản: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
- Từ khoá: Lịch thời vụ, mô hình 2 vụ lúa, rủi ro thiên tai, Vườn Quốc gia U Minh Hạ, xâm nhập mặn
2/ Nội dung chính:
Bài báo nghiên cứu về tác động của xâm nhập mặn và các rủi ro thiên tai lên các mô hình canh tác nông – lâm nghiệp tại vùng U Minh Hạ, tỉnh Cà Mau, trong giai đoạn 2018-2020. Nghiên cứu sử dụng phương pháp kết hợp giữa đo đạc độ mặn thực tế tại 136 điểm, phỏng vấn 120 hộ dân và phương pháp đánh giá nhanh (PRA) để thu thập thông tin về tình hình canh tác, lịch thời vụ, tác động của xâm nhập mặn và các loại hình thiên tai. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là năm 2020. Độ mặn đo được vào tháng 5 năm 2020 đạt mức cao nhất so với năm 2018 và 2019, với diện tích đất bị nhiễm mặn trên 30‰ chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các loại hình thiên tai và rủi ro thiên tai phổ biến tại khu vực nghiên cứu bao gồm hạn hán, xâm nhập mặn, mưa nhiều và ngập lụt. Trong đó, hạn hán và xâm nhập mặn là hai yếu tố gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến các mô hình canh tác.
Đối diện với những thách thức từ xâm nhập mặn và thiên tai, người dân địa phương đã có những giải pháp thích ứng. Trong mô hình trồng lúa 2 vụ, nông dân thường sử dụng các giống lúa ngắn ngày, chịu mặn và phèn như ST24, OM18 và OM5451. Đồng thời, lịch gieo sạ vụ hè thu thường được điều chỉnh trễ hơn để tránh thời điểm xâm nhập mặn cao nhất. Ở mô hình tôm-lúa, người dân sử dụng tôm sú cho môi trường mặn cao và tôm thẻ chân trắng cho môi trường mặn thấp, hoặc thậm chí bỏ vụ lúa khi xâm nhập mặn quá nghiêm trọng. Các mô hình canh tác lâm nghiệp, đặc biệt là trồng tràm và keo lai được thực hiện vào cuối mùa mưa để đảm bảo đất được rửa phèn và mặn, tăng tỉ lệ sống của cây con. Ngoài ra, việc thay đổi lịch thời vụ và điều tiết nước cũng là những giải pháp quan trọng được người dân áp dụng. Đáng chú ý, do hạn hán kéo dài, nhiều hộ gia đình chuyển sang hình thức nuôi tôm quanh năm do lợi nhuận cao hơn so với trồng lúa. Các kết quả cũng cho thấy các mô hình canh tác sử dụng nước lợ, mặn có xu hướng phát triển tự phát, ảnh hưởng đến quy hoạch sử dụng đất địa phương.
Nghiên cứu cũng đã đánh giá nhu cầu sử dụng nước của các hộ dân trong khu vực. Kết quả cho thấy, tình trạng thiếu nước canh tác trở nên nghiêm trọng hơn vào năm 2019, đặc biệt là đối với mô hình lúa 2 vụ. Điều này là do lượng mưa thấp và xâm nhập mặn sâu. Mặt khác, năm 2020 lại có xu hướng thừa nước do mưa nhiều cuối vụ kết hợp với triều cường gây ngập úng cục bộ, ảnh hưởng đến thời điểm thu hoạch lúa. Từ những kết quả thu được, bài báo khuyến nghị các cơ quan chuyên môn cần thống nhất và đồng bộ công tác quản lý, quy hoạch sử dụng đất phù hợp với tình hình thực tế, đồng thời khuyến khích người dân áp dụng các giống cây trồng và vật nuôi có khả năng chống chịu tốt hơn với điều kiện bất lợi. Bên cạnh đó, cần tăng cường hệ thống quan trắc độ mặn để dự báo và hỗ trợ người dân có kế hoạch sản xuất phù hợp, ổn định hơn trong tương lai.