1. Thông tin Luận văn thạc sĩ
- Tên Luận văn: NỀN KINH TẾ PHI CHÍNH THỨC: ƯỚC TÍNH QUI MÔ VÀ HÀM Ý VỀ TIỀM NĂNG THUẾ CỦA VIỆT NAM
- Tác giả: Nguyễn Thái Hòa
- Số trang: 81
- Năm: 2017
- Nơi xuất bản: Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
- Chuyên ngành học: Chính sách Công
- Từ khoá: nền kinh tế phi chính thức, phương pháp mô hình, MIMIC
2. Nội dung chính
Luận văn này nghiên cứu về nền kinh tế phi chính thức (KTPCT) ở Việt Nam, tập trung vào ước tính quy mô, phân tích nguyên nhân gia tăng và đánh giá tác động đến thất thu thuế. Nghiên cứu sử dụng khung lý thuyết về tuân thủ và thất thoát thuế của Ngân hàng Thế giới (WB), kết hợp phương pháp mô hình MIMIC (Multiple-Indicators Multiple-Causes) để ước tính quy mô KTPCT của Việt Nam so với các nước châu Á khác. Mục tiêu chính là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của KTPCT, từ đó đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực và khai thác tiềm năng thuế.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có ba nhóm nguyên nhân chính tác động đến sự gia tăng của KTPCT ở Việt Nam. [https://luanvanaz.com/tom-tat-sach-vi-sao-cac-quoc-gia-that-bai.html] Thứ nhất là hệ thống pháp luật, chất lượng thể chế và sự minh bạch của chính phủ, thể hiện qua các chỉ số hiệu quả chính phủ, trách nhiệm giải trình, nhà nước pháp quyền và mức độ tham nhũng. Hệ thống pháp luật rườm rà, thủ tục hành chính phức tạp và tham nhũng làm tăng [https://luanvanaz.com/kinh-te-hoc-ve-chi-phi-giao-dich-transaction-cost-economics-tce.html] chi phí giao dịch, giảm động lực tham gia vào khu vực kinh tế chính thức. Thứ hai là gánh nặng thuế và các khoản đóng góp xã hội. Thuế suất cao, chi phí tuân thủ lớn làm giảm thu nhập thực tế sau thuế, khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ thuế bằng cách hoạt động trong KTPCT. Thứ ba là sự suy giảm của nền kinh tế chính thức, khi khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp tăng và thu nhập bình quân đầu người giảm, thúc đẩy các cá nhân và doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội trong KTPCT. Ngoài ra, các yếu tố khác như hộ kinh doanh nhỏ lẻ, thói quen tiêu dùng tiền mặt cũng góp phần vào sự phát triển của KTPCT.
Ước tính quy mô KTPCT của Việt Nam cho thấy khu vực này chiếm khoảng 15% – 27% GDP và có xu hướng gia tăng mạnh từ năm 2008 trở đi. Tốc độ tăng trưởng KTPCT của Việt Nam cao thứ ba so với các nước trong mẫu nghiên cứu, trung bình mỗi năm tăng 1,4% GDP. Với quy mô lớn như vậy, mỗi năm Việt Nam thất thoát khoảng 3% – 5% GDP từ nguồn thu thuế, tương đương 1/5 tổng doanh thu thuế của nền kinh tế chính thức. Nếu kiểm soát và thu hẹp được phạm vi của KTPCT, khuyến khích các chủ thể tham gia vào khu vực chính thức, ngân sách nhà nước có thể thu thêm khoảng 2% – 3% GDP tiền thuế mỗi năm, góp phần củng cố tính bền vững của cán cân ngân sách. Tình trạng thất thoát thuế này cũng có thể góp phần vào nguyên nhân của bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất một số khuyến nghị chính sách nhằm kích thích các cá thể tham gia vào nền kinh tế chính thức. Chính phủ nên tập trung vào các biện pháp dài hạn, tạo ra những thay đổi mang tính nền tảng. Cụ thể là cải thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả. Kiểm soát và hạn chế nạn tham nhũng và các chi phí không chính thức, tăng cường trách nhiệm giải trình. Giảm gánh nặng thuế thông qua tối thiểu hóa chi phí tuân thủ và chi phí giao dịch, đơn giản hóa thủ tục hành chính về thuế. Những cải cách hiệu quả này sẽ tạo ra những tác động tích cực, thay đổi nhận thức của các hộ kinh doanh và cá nhân, khuyến khích họ gia nhập vào khu vực chính thức nhiều hơn và hạn chế sự gia tăng của KTPCT.