1/ Thông tin bài báo
- Tên bài báo: ĐÁNH GIÁ NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG VÀ ĐỘ THUẦN CỦA BẢY DÒNG LÚA NẾP KHẢO NGHIỆM HẬU KỲ TẠI HUYỆN THOẠI SƠN TỈNH AN GIANG
- Tác giả: Nguyễn Kim Khánh, Hồ Bão Ngọc, Nguyễn Thái Dương, Trần Phước Lộc, Hình Văn Diên, Bùi Thị Dương Khuyều, Phạm Ngọc Tú và Trương Trọng Ngôn
- Số trang: 96-105
- Năm: 2024
- Nơi xuất bản: Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ
- Từ khoá: BADH2, chất lượng nếp, GS3, nếp, WxIn1
2/ Nội dung chính
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu đánh giá năng suất, chất lượng và độ thuần của bảy dòng lúa nếp triển vọng (N6, N14, N15, N23, N29, N31 và N32) trong điều kiện khảo nghiệm tại huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang vụ Thu Đông 2020. Mục tiêu của nghiên cứu là tuyển chọn những dòng lúa nếp mới có năng suất cao, chất lượng tốt, khả năng chống chịu sâu bệnh, và phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Các thử nghiệm bao gồm đánh giá các chỉ tiêu nông học, chất lượng xay xát và cơm nếp, khả năng kháng sâu bệnh và kiểm tra độ thuần bằng các dấu phân tử liên quan đến gen thơm (BADH2), hàm lượng amylose (WxIn1) và chiều dài hạt (GS3). Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt giữa các dòng lúa nếp về các chỉ tiêu đánh giá.
Trong các thử nghiệm đồng ruộng, các dòng lúa nếp có thời gian sinh trưởng ngắn hơn so với giống đối chứng IR4625, chiều cao cây thấp, độ cứng cây tốt, và chiều dài bông phù hợp với mục tiêu chọn giống. Các dòng N6, N14, N15, N29, và N31 có số bông trên mét vuông cao hơn so với IR4625. Về năng suất, các dòng N6 và N14 có năng suất vượt trội so với các giống đối chứng, trong khi N32 có năng suất tương đương với IR4625. Đánh giá chất lượng xay xát cho thấy dòng N15 có tỷ lệ gạo nguyên cao nhất, các dòng còn lại đều đạt trên 50%. Hàm lượng amylose của các dòng đều thấp, thuộc loại nếp dẻo, và đa số có nhiệt hóa hồ thấp. Kết quả đánh giá chất lượng cơm cho thấy N31 có chất lượng cao nhất, các dòng N6, N14 và N32 có chất lượng tương đương với đối chứng IR4625.
Kết quả kiểm tra phản ứng với sâu bệnh cho thấy các dòng N6, N14, N15, N29 và N32 có khả năng kháng bệnh đạo ôn tốt, còn N31 nổi trội về tính kháng bệnh bạc lá. Tuy nhiên, các dòng đều không kháng rầy nâu. Kiểm tra kiểu gen bằng các dấu phân tử, các dòng lúa nếp đều cho thấy kiểu gen đồng hợp tử ở các gen BADH2, GS3, và WxIn1, chứng tỏ độ thuần về các tính trạng này. Từ kết quả này, nhóm tác giả đã chọn được 4 dòng lúa nếp triển vọng (N6, N14, N15 và N32) để tiếp tục khảo nghiệm tại các vùng sinh thái khác nhau trong vụ tiếp theo. Dòng N31 mặc dù có chất lượng cơm tốt và kháng bạc lá nhưng cần được cải thiện về năng suất và nhiệt độ hóa hồ. Nghiên cứu này là cơ sở quan trọng cho việc phát triển các giống lúa nếp mới có năng suất cao, chất lượng tốt và phù hợp với điều kiện sản xuất tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.