1. Thông tin Nghiên cứu khoa học
- Tên nghiên cứu tiếng Anh: The Introduction of Green Finance: A Curse or a Benefit to Environmental Sustainability?
- Tên nghiên cứu tiếng Việt: Giới thiệu về Tài chính Xanh: Lời nguyền hay Lợi ích cho sự Bền vững Môi trường?
- Tác giả: Abdulrasheed Zakari, Irfan Khan
- Số trang: 5
- Năm: 2022
- Nơi xuất bản: Energy RESEARCH LETTERS, Vol. 3, Issue 3
- Chuyên ngành học: Kinh tế, Tài chính, Môi trường
- Từ khoá: urbanization, energy consumption, environmental degradation, green finance, JEL G2 Q56, PCSE, FGLS
2. Nội dung chính
Nghiên cứu này xem xét vai trò của tài chính xanh trong việc đạt được một môi trường bền vững ở 11 quốc gia hàng đầu về đầu tư vào bảo vệ môi trường từ năm 2006 đến năm 2017. Bằng cách áp dụng các sai số tiêu chuẩn được điều chỉnh theo bảng và mô hình bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (FGLS), nghiên cứu phát hiện ra rằng tài chính xanh có liên quan đến sự cải thiện về tính bền vững của môi trường. Tuy nhiên, tiêu thụ năng lượng và đô thị hóa có tác động tiêu cực đến tính bền vững của môi trường.
Kể từ năm 2017, các quốc gia phát triển và đang phát triển đã nhận ra tầm quan trọng của tài chính xanh như một công cụ để thực hiện Hiệp định Paris (Alliance for Financial Inclusion, 2019). Điều này đã khuyến khích nhiều quốc gia áp dụng các chính sách công cụ tài chính để nhắm mục tiêu đến sự bền vững của môi trường. Thị trường trái phiếu xanh trở thành chủ đề bàn tán, lượng phát hành trái phiếu xanh toàn cầu đã tăng lên 250 tỷ đô la vào năm 2019, tương đương với 3,5% tổng lượng phát hành trái phiếu toàn cầu là 7,15 nghìn tỷ đô la (Ehlers et al., 2020). Kết quả này cho thấy tài chính xanh toàn cầu đang tăng nhanh, điều này cũng có thể là do biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng trên toàn cầu. Vai trò của dịch vụ ngân hàng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cung cấp các công cụ tài chính ngày càng được chú trọng để hỗ trợ các sáng kiến tài chính xanh.
Một số lượng lớn các nghiên cứu đã được thực hiện về mối quan hệ giữa tài chính xanh và hiệu quả môi trường. Có hai nhánh của các nghiên cứu này, phản đối và ủng hộ. Ví dụ, Miroshnychenko et al. (2017) ủng hộ mối liên hệ và chứng minh rằng việc phát hành vốn để bảo vệ môi trường và để phát triển các sản phẩm xanh có thể làm giảm đáng kể sự suy thoái môi trường. Gần đây hơn, Zhou et al. (2020) khám phá tác động của tài chính xanh đối với phát triển kinh tế và môi trường ở Trung Quốc. Họ phát hiện ra rằng, bằng cách tăng cường tài chính xanh, môi trường trở nên xanh hơn, dẫn đến chất lượng môi trường theo thời gian. Tương tự, Chen & Feng (2019) phân loại đầu tư xanh là tài chính xanh của doanh nghiệp và địa phương. Phát hiện của họ cho thấy tài chính xanh của doanh nghiệp không có tác động đáng kể vì nó quá thấp, nhưng tài chính xanh của địa phương giúp chống lại sự suy thoái môi trường. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản trị tài chính trong doanh nghiệp các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản trị tài chính trong doanh nghiệp cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo nguồn lực tài chính xanh được sử dụng hiệu quả nhất.
Tương tự, Siedschlag & Yan (2020) lập luận rằng việc tăng cường tài chính xanh của các quốc gia có thể dẫn đến đóng góp tích cực vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, gián tiếp cải thiện hiệu quả môi trường. Quan trọng hơn, Chen & Ma (2021) lập luận rằng tài chính xanh có tác động đáng kể đến tình trạng lạm dụng môi trường, cải thiện hiệu quả môi trường. Hơn nữa, Yuan (2017) báo cáo mối quan hệ giữa tài chính xanh và tính bền vững của môi trường. Tuy nhiên, tài chính xanh có tác động tích cực cao nhất đến tính bền vững của môi trường. Mặc dù Meo & Abd Karim (2021) lập luận rằng tài chính xanh có thể tạo ra một mối liên hệ tiêu cực trên các phân vị khác nhau, tài chính xanh vẫn là công cụ tài chính tốt nhất để hạn chế ô nhiễm. Do đó, tài chính xanh có thể làm giảm ô nhiễm môi trường và đóng vai trò là công cụ để tăng cường môi trường (Huang & Zhang, 2021).
Cũng có sự hỗ trợ lý thuyết vững chắc rằng tài chính xanh có thể gây bất lợi cho môi trường. Ví dụ, Adeel-Farooq et al. (2018) lập luận rằng, tùy thuộc vào khu vực, tài chính xanh có thể tác động đến hiệu quả môi trường, trong đó một số khu vực có thể bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng của tài chính xanh. Tuy nhiên, Meo & Abd Karim (2021) lập luận rằng tài chính xanh có thể không phải lúc nào cũng dẫn đến một môi trường xanh, do sự thay đổi về thời gian và các mùa. Tran (2021) điều tra tác động của tài chính xanh, tiêu thụ năng lượng và tăng trưởng kinh tế đối với ô nhiễm ở Việt Nam và tìm thấy mối quan hệ một chiều giữa tài chính xanh và tính bền vững của môi trường. Một chỉ trích khác đối với tài chính xanh là nó chỉ khuyến khích hiệu quả năng lượng thông qua việc phát triển công nghệ mới trong khi nó cản trở sự đổi mới xanh (Peng & Zheng, 2021).
Tài liệu (Chen & Feng, 2019; Chen & Ma, 2021) đã nghiên cứu rộng rãi mối liên hệ giữa tài chính xanh và hiệu quả môi trường. Tuy nhiên, nó đã không nắm bắt được hai khía cạnh của tài chính xanh, cụ thể là tài chính xanh do tư nhân và công cộng dẫn dắt. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc triển khai các dự án tài chính xanh, và việc hiểu rõ các yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu này là rất cần thiết. Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây (Peng & Zheng, 2021; Tran, 2021) chủ yếu phân tích dữ liệu chuỗi thời gian thay vì dữ liệu bảng. Các tác giả cho rằng các phân tích chuỗi thời gian có nhiều vấn đề, chẳng hạn như các vấn đề khái quát hóa từ một nghiên cứu duy nhất, đo lường chiếm đoạt và lựa chọn mô hình không phù hợp (Velicer & Plummer, 1998). Do đó, các tác giả được thúc đẩy để xem xét vai trò của tài chính xanh đối với sự suy thoái môi trường bằng cách sử dụng dữ liệu hàng năm từ năm 2006 đến năm 2017, áp dụng các kỹ thuật kinh tế lượng mạnh mẽ. Kết quả của nghiên cứu này sẽ có ý nghĩa đáng kể đối với chính sách và thực tiễn.
Nghiên cứu này đóng góp gia tăng vào tài liệu theo hai cách. Thứ nhất, một số nghiên cứu (Peng & Zheng, 2021; Tran, 2021) tập trung vào tài chính xanh công cộng, chẳng hạn như chính sách xanh của chính phủ, trong khi những nghiên cứu khác (ví dụ: Siedschlag & Yan, 2020) sử dụng trái phiếu xanh làm chỉ số của tài chính xanh. Các tác giả cho rằng việc tách biệt tài chính xanh tư nhân và công cộng sẽ không cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về tài chính xanh, vì cả hai chỉ số đều rất quan trọng trong việc quyết định hiệu quả môi trường. Do đó, các tác giả sử dụng cả giao dịch xanh tư nhân và công cộng để đại diện cho tài chính xanh. Thứ hai, hầu hết các nghiên cứu trước đây (Adeel-Farooq et al., 2018; Meo & Abd Karim, 2021) sử dụng các phân tích chuỗi thời gian, được phát hiện là mắc phải các vấn đề khái quát hóa từ một nghiên cứu duy nhất, đo lường chiếm đoạt và lựa chọn mô hình không phù hợp (Velicer & Plummer, 1998). Do đó, nghiên cứu này áp dụng một phương pháp mới bằng cách sử dụng ước tính bảng để tính đến cả sự phụ thuộc theo mặt cắt ngang và tính nội sinh.
Dữ liệu về tài chính xanh được thu thập từ thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong khi dữ liệu về hiệu quả môi trường, tiêu thụ năng lượng, thương mại và đô thị hóa được thu thập từ các Chỉ số Phát triển Thế giới của cơ sở dữ liệu Ngân hàng Thế giới. Hơn nữa, nghiên cứu đánh giá tác động của tài chính xanh đối với hiệu quả môi trường bằng cách sử dụng các sai số tiêu chuẩn được điều chỉnh theo bảng (PCSE) và một mô hình thay thế, cụ thể là bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (FGLS). Điều này rất quan trọng, vì cả hai mô hình đều giải quyết các vấn đề về sự phụ thuộc theo mặt cắt ngang, đo lường chiếm đoạt, lựa chọn biến không phù hợp và tính nội sinh.
Giá trị trung bình của suy thoái môi trường (7,021 nồng độ có thể chấp nhận tối đa) cho thấy rằng 11 quốc gia đã thực hiện các chính sách môi trường nghiêm ngặt, trong số những chính sách khác, với khoản đầu tư xanh khổng lồ lên tới hơn 3.275.675 đô la. Mức tiêu thụ năng lượng ở các quốc gia này tương đối nhỏ so với dân số đô thị của họ (12.290.852). Tuy nhiên, các quốc gia này vẫn rất chặt chẽ về mặt thương mại (125.024 đô la), con số này rất thấp. Ma trận tương quan cho thấy rằng tài chính xanh có liên quan tiêu cực đến lượng khí thải carbon, dẫn đến suy thoái môi trường, cho thấy rằng tài chính xanh thúc đẩy hiệu quả môi trường. Tương tự, tiêu thụ năng lượng có tương quan tiêu cực với tài chính xanh và có tương quan với suy thoái môi trường. Tuy nhiên, thương mại cho thấy mối quan hệ tích cực với suy thoái môi trường và tiêu thụ năng lượng, nhưng mối quan hệ tiêu cực với tài chính xanh. Cuối cùng, nghiên cứu nhận thấy rằng đô thị hóa có liên quan tích cực đến tài chính xanh, nhưng liên quan tiêu cực đến suy thoái môi trường, tiêu thụ năng lượng và thương mại.
Hệ số của tài chính xanh (-7,6208) là dương và có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 1%, cho thấy rằng tài chính xanh có liên quan đến việc giảm suy thoái môi trường. Nói cách khác, tài chính xanh có tiềm năng cứu vãn môi trường thông qua hiệu quả môi trường mạnh mẽ. Điều này có nghĩa là mức tăng 1% trong tài chính xanh có thể làm giảm lượng khí thải carbon khoảng 7,62% mỗi năm. Kết quả này là có thể dự kiến, bởi vì tài trợ cho các sản phẩm xanh có nghĩa là ít sản phẩm thâm dụng ô nhiễm hơn được sử dụng. Do đó, sẽ có ít ô nhiễm hơn. Phát hiện này phù hợp với công trình của Shen et al. (2021), người xác nhận tài chính xanh giúp giảm lượng khí thải carbon dioxide, trong khi Meo & Abd Karim (2021) cũng nhận thấy rằng tài chính xanh làm giảm lượng khí thải carbon dioxide. Kết quả cho hầu hết các biến kiểm soát phù hợp với các kỳ vọng tiêu chuẩn. Ví dụ, nghiên cứu nhận thấy rằng tiêu thụ năng lượng và đô thị hóa có liên quan tích cực đến suy thoái môi trường; điều này cho thấy rằng tiêu thụ năng lượng và đô thị hóa làm tăng suy thoái môi trường. Phát hiện này phù hợp với công trình của Nathaniel & Adeleye (2021), người tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa tiêu thụ năng lượng và đô thị hóa về mặt suy thoái môi trường. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả quản trị tài chính trong doanh nghiệp cũng cần được xem xét để đảm bảo các chính sách tài chính xanh đạt được hiệu quả cao nhất trong việc bảo vệ môi trường.
3. Kết luận
Các nghiên cứu trước đây ghi lại mối quan hệ đáng kể giữa tài chính xanh và môi trường. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đây (Meo & Abd Karim, 2021; Shen et al., 2021) sử dụng riêng biệt trái phiếu xanh tư nhân và công cộng và đầu tư xanh làm đại diện cho tài chính xanh. Các tác giả cho rằng hai chỉ số này chỉ phản ánh tài chính xanh do khu vực tư nhân hoặc khu vực công dẫn dắt, điều này bỏ qua ảnh hưởng chung của chúng. Điều này có thể dẫn đến kết quả sai lệch, do phạm vi bảo hiểm tài chính xanh hạn chế. Do đó, nghiên cứu sử dụng tài chính xanh như được phát triển trong thống kê của OECD, bao gồm đầu tư xanh do khu vực công và khu vực tư nhân dẫn dắt, để xem xét vai trò của tài chính xanh trong suy thoái môi trường cho 11 quốc gia hàng đầu về đầu tư vào bảo vệ môi trường từ năm 2006 đến năm 2017. Hơn nữa, nghiên cứu này đánh giá tác động của tiêu thụ năng lượng, thương mại và đô thị hóa đối với lượng khí thải carbon dioxide, sử dụng các mô hình mạnh mẽ như PCSE và FGLS.
Kết quả hồi quy của PCSE và FGLS chỉ ra rằng tài chính xanh có mối quan hệ tiêu cực đáng kể với suy thoái môi trường. Điều này ngụ ý rằng sự gia tăng trong tài chính xanh có liên quan đến việc giảm suy thoái môi trường. Nói cách khác, tài chính xanh nhắm mục tiêu đến các khoản đầu tư xanh, chẳng hạn như mua các sản phẩm xanh và phát triển các cơ sở xanh sẽ làm giảm lượng khí thải carbon dioxide. Tuy nhiên, tiêu thụ năng lượng và đô thị hóa có mối quan hệ tích cực với suy thoái môi trường, cho thấy rằng sự gia tăng trong tiêu thụ năng lượng và đô thị hóa làm trầm trọng thêm suy thoái môi trường. Phát hiện này cho thấy rằng tiêu thụ năng lượng và đô thị hóa đang gây ra sự gia tăng lượng khí thải carbon dioxide. Nghiên cứu khuyến nghị các quốc gia nên thúc đẩy tài chính xanh.