1/ Thông tin bài báo
- Tên bài báo: ĐÁNH GIÁ KINH TẾ MÔ HÌNH CANH TÁC THEO HƯỚNG THÍCH ỨNG VỚI BIỂN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG CÁT HUYỆN HẢI LĂNG
- Tác giả: Bùi Dũng Thể, Phạm Minh Hải
- Số trang: 5-15
- Năm: 2019
- Nơi xuất bản: Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển
- Từ khoá: thích ứng biến đổi khí hậu, mô hình canh tác, đánh giá kinh tế, vùng cát ven biển
2/ Nội dung chính
Bài báo tập trung nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của các mô hình canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) tại vùng cát huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Bối cảnh được đặt ra là nông nghiệp vùng cát ven biển Việt Nam dễ bị tổn thương bởi BĐKH, với các tác động tiêu cực như suy thoái đất, giảm năng suất và chất lượng nông sản, cùng với các hiện tượng thời tiết cực đoan. Bài viết khẳng định thích ứng với BĐKH là một yêu cầu tất yếu, trong đó việc điều chỉnh mô hình canh tác, áp dụng các biện pháp luân canh, xen canh là một trong những giải pháp quan trọng. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả kinh tế của một số mô hình canh tác thích ứng với BĐKH đang được nông dân áp dụng, từ đó đưa ra những thông tin tham khảo để nhân rộng các mô hình hiệu quả.
Nghiên cứu này tiến hành khảo sát và đánh giá bốn mô hình canh tác phổ biến tại hai xã Hải Ba và Hải Dương, huyện Hải Lăng, bao gồm: lúa Đông Xuân (ĐX) – đậu xanh Hè Thu (HT), mướp đắng 2 vụ, hành tăm – đậu xanh và sắn xen đậu xanh. Các mô hình này được lựa chọn dựa trên thảo luận nhóm với nông dân và ý kiến của các chuyên gia nông nghiệp địa phương. Quá trình thu thập dữ liệu bao gồm cả thông tin thứ cấp từ các cơ quan chức năng và thông tin sơ cấp từ phỏng vấn trực tiếp các hộ nông dân. Phương pháp phân tích chủ yếu là thống kê mô tả và so sánh các chỉ tiêu kinh tế như giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, thu nhập hỗn hợp, lợi nhuận và các tỷ suất liên quan. Kết quả cho thấy, mô hình mướp đắng 2 vụ và hành tăm – đậu xanh có hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với mô hình lúa ĐX – đậu xanh HT và sắn xen đậu xanh. Các chỉ số như lợi nhuận ròng, tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí của hai mô hình này đều vượt trội so với hai mô hình còn lại.
Kết luận của bài báo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn mô hình canh tác thích ứng với BĐKH để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp tại vùng cát. Mô hình mướp đắng 2 vụ được đánh giá cao nhất về hiệu quả kinh tế, với lợi nhuận bình quân khoảng 8 triệu đồng/sào/năm, đồng thời có tỷ suất lợi nhuận ròng trên tổng chi phí là 3,03 lần. Tuy nhiên, tác giả cũng lưu ý rằng mô hình này có thể gây suy thoái đất do độc canh, do đó cần nghiên cứu thêm các biện pháp canh tác xen canh để cải tạo đất. Mô hình hành tăm – đậu xanh cũng được xem là có hiệu quả kinh tế khá cao và có tính bền vững do luân canh cây trồng. Trong khi đó, mô hình lúa ĐX – đậu xanh HT có hiệu quả kinh tế thấp nhất do chi phí đầu tư cao và năng suất không ổn định, do đó cần phải tìm kiếm các giống cây trồng khác phù hợp hơn. Tóm lại, bài báo đã cung cấp những bằng chứng thực tiễn về hiệu quả của các mô hình canh tác thích ứng với BĐKH tại vùng cát ven biển, từ đó đề xuất các hướng đi để nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân địa phương.