Trong hơn 60 năm qua, cấu trúc vốn (capital structure), cấu trúc tài chính (financial structure) và các lý thuyết có liên quan là một trong các chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới quan tâm vì đó là quyết định quan trọng của quản trị tài chính ở các DN.
Thuật ngữ cấu trúc vốn (CTV) xuất hiện đầu tiên trong công trình nghiên cứu của Modigliani và Miller (MM) vào năm 1958 về ảnh hưởng của cấu trúc vốn đối với giá trị DN, theo đó cấu trúc vốn được định nghĩa là quan hệ tỷ lệ giữa nợ dài hạn với vốn chủ sở hữu. Công trình đầu tiên có ảnh hưởng lớn này là nền tảng cho nhiều nghiên cứu thực nghiệm trong nhiều thập niên và định nghĩa về cấu trúc vốn cũng được nhiều học giả theo đuổi quan điểm như quan điểm của MM.
Có thể liệt kê một số định nghĩa về cấu trúc vốn, như định nghĩa của Mishkin (2004) là: “CTV là kết hợp giữa nợ dài hạn với vốn cổ phần, vốn chủ sở hữu bao gồm cả lợi nhuận giữ lại” [76], của Awan và các cộng sự (2010), Gas (2014) “CTV được định nghĩa là quan hệ tỷ suất giữa nợ dài và vốn chủ sở hữu” [21], [53].
Tuy nhiên, trên thực tiễn thì nguồn vốn tài trợ ở các DN không chỉ là các trái phiếu phát hành, các khoản nợ vay dài hạn, mà còn là các khoản nợ vay ngắn hạn và các khoản nợ khác trong kinh doanh. Cũng vì thực tiễn này trong hoạt động tài trợ ở các DN và những số liệu này đều được trình bày rõ ràng trên BCTC mà nhiều nghiên cứu trên thực tế đã mở rộng xem xét chính sách tài trợ thông qua khái niệm cấu trúc tài chính (CTTC).
Năm 1979, trong công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính, Ferri và Jones [49] đưa ra khái niệm: “CTTC là quan hệ tỷ suất giữa nợ và vốn chủ sở hữu phục vụ cho quá trình tài trợ của DN”. Dubois [42] cho rằng: “CTTC DN là quan hệ giữa các nguồn vốn được sử dụng trong DN, gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nợ”.41
Năm 1995, trong một nghiên cứu dữ liệu quốc tế, Rajan và Zingales [94] cho rằng tùy theo mục tiêu phân tích, CTTC được định nghĩa là tỷ suất giữa toàn bộ nợ (gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn) với tổng tài sản hoặc tỷ suất giữa toàn bộ nợ với vốn vốn chủ sở hữu.
Xem thêm: Download Luận án “Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của các doanh nghiệp ngành xây dựng Việt Nam“
Có thể liệt kê định nghĩa CTTC như định nghĩa của Mishkin (2004), “Cấu trúc tài chính là kết hợp giữa toàn bộ nợ với vốn chủ sở hữu (VCSH) trong tổng nguồn vốn mà DN có thể huy động được để tài trợ cho hoạt động của DN” [76], [7], [16].
Như vậy, CTTC hiểu theo nghĩa chung nhất là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ của toàn bộ nợ phải trả (bao gồm nợ ngắn hạn, nợ trung dài hạn và nợ khác) với VCSH được sử dụng để tài trợ cho hoạt động của DN.
Từ các định nghĩa trên có thể khái quát CTTC và CTV có mối quan hệ với nhau từ các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán như sau:
Từ các khái niệm và sơ đồ trên cho thấy, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp là khái niệm bao quát chỉ mối quan hệ tỷ lệ giữa toàn bộ nợ và VCSH. CTV liên quan đến các nguồn vốn mang tính chất dài hạn như vốn cổ phần, trái phiếu, vay dài hạn. Như vậy, CTV6 cũng là một chỉ tiêu bộ phận của CTTC khi đề cập đến cơ cấu nguồn vốn mà DN sử dụng để tài trợ cho hoạt động SXKD. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, CTTC được đo lường bằng nhiều chỉ tiêu.