1. Thông tin Nghiên cứu khoa học
- Tên nghiên cứu tiếng Anh: Higher cost of finance exacerbates a climate investment trap in developing economies
- Tên nghiên cứu tiếng Việt: Chi phí tài chính cao làm trầm trọng thêm bẫy đầu tư khí hậu ở các nền kinh tế đang phát triển
- Tác giả: Nadia Ameli, Olivier Dessens, Matthew Winning, Jennifer Cronin, Hugues Chenet, Paul Drummond, Alvaro Calzadilla, Gabrial Anandarajah & Michael Grubb
- Số trang: 12
- Năm: 2021
- Nơi xuất bản: Nature Communications
- Chuyên ngành học: Kinh tế năng lượng, Tài chính bền vững, Mô hình hóa hệ thống năng lượng
- Từ khoá: Chi phí vốn, Năng lượng tái tạo, Nền kinh tế đang phát triển, Tài chính khí hậu, Bẫy đầu tư
2. Nội dung chính
Nghiên cứu này tập trung vào tác động của chi phí vốn (WACC) khác nhau giữa các khu vực trên lộ trình khử cacbon của các nền kinh tế đang phát triển. Các tác giả sử dụng mô hình hệ thống năng lượng toàn cầu TIAM-UCL để đánh giá tác động của WACC khác nhau trong lĩnh vực điện đối với các mô hình đầu tư tối ưu chi phí cho quá trình chuyển đổi năng lượng phù hợp với các mục tiêu toàn cầu 2°C. Nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng các giá trị WACC đặc trưng cho từng khu vực dẫn đến sản lượng điện xanh thấp hơn đáng kể ở châu Phi so với khi bỏ qua các yếu tố khu vực. Ví dụ, khi xem xét các giá trị WACC đặc trưng cho khu vực, sản lượng điện xanh ở châu Phi sẽ thấp hơn 35% so với khi bỏ qua các yếu tố khu vực để đạt được lộ trình tối ưu chi phí 2°C. “Việc đại diện cho các giá trị WACC theo khu vực cho thấy sản lượng điện xanh ở Châu Phi thấp hơn 35% so với lộ trình tối ưu chi phí 2°C so với khi bỏ qua các cân nhắc về khu vực” (Ameli et al., 2021).
Nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng các chính sách can thiệp làm giảm giá trị WACC cho cả công nghệ phát thải cacbon thấp và cao vào năm 2050 sẽ cho phép châu Phi đạt được mức phát thải ròng bằng không sớm hơn khoảng 10 năm so với khi không xem xét việc giảm chi phí vốn. Sự khác biệt về WACC, ngoài việc phản ánh rủi ro đầu tư, còn do các yếu tố chung hơn, bao gồm cả xu hướng thiên vị trong tài chính của cả cá nhân và tổ chức. Các tác giả lập luận rằng các khuôn khổ tài chính hiện tại tạo ra rào cản đối với dòng vốn đầu tư khí hậu ở các nền kinh tế đang phát triển, dẫn đến một “bẫy đầu tư khí hậu” khi các khoản đầu tư liên quan đến khí hậu vẫn ở mức không đủ mãn tính. Một bẫy đầu tư khí hậu xảy ra khi các khoản đầu tư liên quan đến khí hậu vẫn không đủ mãn tính, do một tập hợp các cơ chế tự củng cố với động lực tương tự như bẫy nghèo đói.
Để khắc phục tình trạng này, nghiên cứu đề xuất cần có những thay đổi căn bản để phân phối vốn một cách công bằng hơn. Các tác giả cho rằng việc hiểu tác động của sự khác biệt khu vực về chi phí vốn nhấn mạnh sự cấp bách để các nhà hoạch định chính sách vượt qua bẫy đầu tư khí hậu như một phần trong các mục tiêu cốt lõi của tài chính bền vững (SF).
Nghiên cứu đi sâu vào việc phân tích cách các biện pháp giảm WACC khác nhau tác động đến các lộ trình khử cacbon và đầu tư vào các nền kinh tế đang phát triển và phát triển. Để làm nổi bật những ý nghĩa đối với các quốc gia đại diện có hồ sơ rủi ro cao và thấp, các tác giả tập trung vào kết quả của Tây Âu và Châu Phi. Kết quả cho thấy đến năm 2050, sản xuất điện carbon thấp ở Châu Phi thấp hơn nhiều khi áp dụng các giá trị WACC địa phương (REG) thay vì giá trị toàn cầu thống nhất (GBL). Điều này dẫn đến sự khác biệt về lượng khí thải CO2, với việc Châu Phi đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2065 trong kịch bản REG so với năm 2058 trong kịch bản GBL.
Phân tích sâu hơn về việc giới thiệu tiềm năng của các chính sách giảm giá trị WACC, các tác giả cho thấy tác động đáng kể đến cơ cấu sản xuất điện ở Châu Phi, đặc biệt khi chi phí tài chính giảm nhanh hơn (kịch bản FAST). Nghiên cứu cho thấy rằng việc giảm WACC sớm hơn sẽ cho phép các nền kinh tế đang phát triển đạt được mức độ triển khai điện carbon thấp cao hơn nhiều và giảm phát thải nhanh hơn. Đối với Châu Phi, so với kịch bản REG, việc giảm WACC sớm hơn vào năm 2050 sẽ dẫn đến mức tăng gần 50% sản lượng điện carbon thấp vào thời điểm này, trong khi việc giảm WACC vào năm 2100 sẽ làm tăng sản lượng điện carbon thấp thêm 20% vào năm 2100. Theo kết quả nghiên cứu, việc giảm WACC vào năm 2050 (FAST) cũng sẽ cho phép Châu Phi đạt được mức phát thải ròng bằng 0 sớm hơn khoảng 10 năm so với trường hợp REG, với đầu tư cao hơn trong ngắn hạn.
Để đạt được việc giảm WACC sớm hơn, các tác giả thảo luận về các thông lệ hiện có trong các khuôn khổ SF hiện tại từ góc độ địa phương và quốc tế, đồng thời thông qua các thành phần chính của nó: thị trường vốn tư nhân, tài chính công và phát triển, quy định tài chính và chính sách tiền tệ. Họ lập luận rằng việc áp dụng các tiêu chí ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) và các phương pháp tiếp cận rủi ro trong quá trình ra quyết định đầu tư có thể tạo ra các liên kết bền vững giữa thị trường vốn tư nhân quốc tế và các nền kinh tế đang phát triển. Hơn nữa, việc sử dụng các tiêu chí ESG để sàng lọc các khoản đầu tư carbon thấp có xu hướng phạt các quốc gia có đặc điểm là tiêu chuẩn dân chủ, minh bạch, nhân quyền và đạo đức thấp, nơi các tiêu chí này khó áp dụng.
Do khả năng tiếp cận hạn chế của các nền kinh tế đang phát triển đối với thị trường vốn quốc tế, việc thúc đẩy tài chính carbon thấp đòi hỏi phải tăng cường các hệ thống tài chính địa phương. Các tác giả cho rằng tài chính công và đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể giúp thúc đẩy thị trường tài chính địa phương bằng cách cung cấp vốn dài hạn ban đầu cho các dự án carbon thấp.
3. Kết luận
Nghiên cứu kết luận rằng các nền kinh tế đang phát triển bị ảnh hưởng không cân xứng bởi các giả định chung về tỷ lệ WACC thống nhất trên toàn cầu. Các tác giả nhấn mạnh rằng việc giả định các giá trị WACC thống nhất trên toàn cầu, nghiêng về các giá trị được trải nghiệm ở các nền kinh tế phát triển, sẽ đánh giá thấp chi phí khử cacbon của các nền kinh tế đang phát triển, và do đó là bẫy đầu tư khí hậu mà họ gặp phải. Nghiên cứu cho thấy các mô hình với tỷ lệ WACC thống nhất trong lĩnh vực năng lượng đánh giá thấp các khoản đầu tư cần thiết để đạt được các mức độ sản xuất điện carbon thấp nhất định và đánh giá quá cao các mức độ triển khai carbon thấp phù hợp với lộ trình khử cacbon tối ưu chi phí trên toàn cầu. Cụ thể, mô hình TIAM-UCL đánh giá quá cao sản lượng điện carbon thấp ở Châu Phi lên tới 35% khi không xem xét các điều kiện tài chính địa phương trong các lộ trình 2°C. Do đó, cần có những thay đổi căn bản trong các khuôn khổ tài chính để phân bổ tốt hơn vốn cho các khu vực cần nó nhất.