1. Thông tin Luận văn thạc sĩ
- Tên Luận văn: ẢNH HƯỞNG CỦA SỞ HỮU NHÀ NƯỚC VÀ CÁC KHOẢN VAY NGÂN HÀNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ CỦA CÁC CÔNG TY VIỆT NAM
- Tác giả: TRẦN THỊ TRANG
- Số trang: 160
- Năm: 2017
- Nơi xuất bản: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
- Chuyên ngành học: Tài chính – Ngân hàng
- Từ khoá: Đòn bẩy (leverage), các khoản vay ngân hàng (bank loans), sở hữu Nhà nước (state ownership), vai trò xử lý kỷ luật (disciplining role).
2. Nội dung chính
Luận văn tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của sở hữu Nhà nước và các khoản vay ngân hàng đến quyết định đầu tư của các công ty Việt Nam. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính của 319 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HSX) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) trong giai đoạn 2008-2015. Luận văn sử dụng các phương pháp hồi quy OLS, FEM và 2SLS với biến công cụ để phân tích dữ liệu. Mục tiêu chính là kiểm định tác động của các khoản vay ngân hàng đến quyết định đầu tư của các công ty Việt Nam, đồng thời xem xét sự khác biệt trong tác động này giữa các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước khác nhau và giữa các công ty có mức độ tăng trưởng khác nhau. Ngoài ra, luận văn cũng xem xét vai trò xử lý kỷ luật của các ngân hàng đối với các khoản vay, đặc biệt là khoản vay ngắn hạn và dài hạn, trong việc thực hiện quyết định đầu tư của các công ty.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tồn tại mối tương quan âm giữa nợ vay ngân hàng và việc thực hiện quyết định đầu tư trong các công ty Việt Nam. Điều này có nghĩa là, khi các công ty vay nợ ngân hàng càng nhiều, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn, thì các công ty sẽ có xu hướng hạn chế việc ra và thực hiện các quyết định đầu tư. Tuy nhiên, mối tương quan dương giữa nợ dài hạn ngân hàng và việc thực hiện quyết định đầu tư cho thấy nếu nợ vay dài hạn ngân hàng được sử dụng nhiều trong cấu trúc vốn của các công ty thì các công ty càng tăng cường việc thực hiện quyết định đầu tư. Kết quả này phù hợp với các lý thuyết tài chính về chi phí đại diện, bất cân xứng thông tin và lý thuyết trật tự phân hạng. Để hiểu rõ hơn về lý thuyết về chi phí đại diện, bạn có thể tham khảo thêm bài viết này. Việc sử dụng các khoản vay ngân hàng ngắn hạn tạo ra áp lực tài chính lớn hơn, buộc các công ty phải quản lý dòng tiền chặt chẽ hơn và hạn chế các dự án đầu tư có độ rủi ro cao.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, mối tương quan âm giữa nợ ngân hàng và đầu tư ở các công ty tăng trưởng cao yếu hơn so với công ty tăng trưởng thấp. Xét yếu tố kỳ hạn vay, mối tương quan âm giữa khoản vay ngân hàng với kỳ hạn ngắn và đầu tư ở các công ty tăng trưởng cao yếu hơn so với công ty tăng trưởng thấp. Ngược lại, mối tương quan dương giữa khoản vay ngân hàng với kỳ hạn dài và đầu tư ở các công ty tăng trưởng cao yếu hơn so với công ty tăng trưởng thấp. Điều này cho thấy, ở những công ty có ít cơ hội tăng trưởng, mức độ nợ ngân hàng mà các công ty sử dụng trong cấu trúc vốn càng nhiều sẽ giúp các công ty hạn chế được tình trạng đầu tư quá mức. Và nếu những công ty này lại có tỷ lệ sở hữu Nhà nước cao thì thường sẽ có xu hướng tận dụng những lợi thế khi được sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc tiếp cận các khoản vay dài hạn ngân hàng để gia tăng đầu tư nhiều hơn so với các công ty có mức tăng trưởng cao. Điều này có thể là do ở những công ty có mức độ tăng trưởng thấp sẽ có ít cơ hội đầu tư tốt, và dòng tiền tự do cao có thể dẫn đến các quyết định đầu tư kém hiệu quả, vì vậy các chủ nợ có xu hướng giám sát chặt chẽ các hoạt động đầu tư.
Thêm vào đó, kết quả nghiên cứu cho thấy mối tương quan âm giữa nợ ngân hàng và việc thực hiện quyết định đầu tư của các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước cao yếu hơn so với các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước thấp. Điều này ngụ ý rằng, các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước cao nhờ vào lợi thế được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nên khi vay nợ của các ngân hàng để thực hiện các quyết định đầu tư thì các ngân hàng ít sử dụng các biện pháp xử lý kỷ luật để thực hiện giám sát các công ty này hơn, các ngân hàng cũng áp dụng những điều kiện vay nợ dễ dàng hơn và đưa ra chính sách cho vay ít ràng buộc hơn so với các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước thấp. Để hiểu rõ hơn về lý thuyết bất cân xứng thông tin có liên quan đến quyết định vay vốn, bạn có thể đọc thêm tại đây. Hơn nữa, các công ty sử dụng nợ vay dài hạn ngân hàng trong cấu trúc vốn càng nhiều thì các công ty càng tăng cường việc thực hiện các quyết định đầu tư, đồng thời, các ngân hàng cũng ít sử dụng các biện pháp xử lý kỷ luật để thực hiện giám sát đối với các khoản vay dài hạn trong các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước cao so với nhóm công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước thấp. Tuy nhiên, vai trò xử lý kỷ luật của các ngân hàng đối với khoản vay ngắn hạn là không có sự khác biệt giữa các công ty có tỷ lệ sở hữu Nhà nước khác nhau. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy rằng, các công ty có tỷ lệ nợ vay dài hạn trên tổng nợ vay ngân hàng càng cao thì mối tương quan âm giữa nợ vay ngân hàng và đầu tư của công ty sẽ càng yếu hơn, cho thấy các ngân hàng Việt Nam chủ yếu sử dụng các khoản vay ngắn hạn hơn là khoản vay dài hạn để áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật trong việc tài trợ cho các công ty thực hiện các quyết định đầu tư. Để hiểu rõ hơn về lý thuyết trật tự phân hạng và cách doanh nghiệp lựa chọn nguồn vốn, bạn có thể tham khảo bài viết này.