Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là gì? Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ra sao?
Luận án tiếp cận khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo dựa trên định nghĩa của thế giới về “Start-up” do đó các định nghĩa được trích dẫn dưới dây đều xoay quanh nghiên cứu về “Start-up”. Cùng với sự phát triển của kinh tế, nhiều hình thức doanh nghiệp mới được ra đời trong đó có “Start-up” là hình thức doanh nghiệp mới thu hút được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Thuật ngữ “Start-up” được sử dụng lần đầu tiên theo nghĩa mới vào năm 1976 trên tạp chí Forbes, với hàm ý là các doanh nghiệp mới trong lĩnh vực xử lý dữ liệu điện tử. Sau đó “Start-up” được đề cập là một doanh nghiệp công nghệ cao, sáng tạo và tăng trưởng nhanh trong tạp chí Business Week (1977).
Blank và Dorf (2012) cho rằng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo “là tổ chức tạm thời tìm kiếm mô hình kinh doanh có khả năng tăng tốc phát triển, nhân rộng và mang lại lợi nhuận”.
Blank (2013) cho rằng “Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp: (i) có tham vọng trở thành công ty lớn có ảnh hưởng nhất định tới thị trường hiện tại hoặc tạo ra một thị trường hoàn toàn mới; (ii) luôn thử nghiệm liên tục các giả thuyết kinh doanh, xác minh chúng và sửa đổi liên tục các phiên bản của mô hình kinh doanh thoả đáng với mục tiêu trên, (iii) cấu trúc tài sản thay đổi trong giai đoạn tăng trưởng từ việc nhận tiền đầu tư từ bên ngoài dẫn đến tỷ lệ sở hữu của nhà sáng lập sẽ giảm dần.“
Có thể thấy rằng, khái niệm “Start-up” có nhiều điểm giống nhau giữa kết quả nghiên cứu của nhà khoa học và khái niệm “Start-up” được nhắc đến trên các kênh truyền thông đại chúng xuất phát từ những chuyên gia về khởi nghiệp sáng tạo có kinh nghiệm trong hệ sinh thái như Steve Blank, Paul Graham, Alexander Osterwalder và Eric Rise. Đồng thời các trường đại học hàng đầu như Standford, Harvard, MIT cũng mời các chuyên gia tham gia đồng sáng tạo các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp trong các trường đó.
Định nghĩa được trích dẫn rộng rãi không chỉ trong các ấn phẩm kinh doanh mà còn trong các tài liệu khoa học là định nghĩa của Steve Blank (2003), là một doanh nhân ở Thung lũng Sillicon và là một trong ba người giới thiệu thuật ngữ “Khởi nghiệp tinh gọn”. Theo đó doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là một tổ chức tạm thời được thành lập để tìm kiếm mô hình kinh doanh có thể lặp lại và mở rộng được (Blank, 2003, 2013). Có thể thấy rằng khái niệm của Blank (2013) không nhắc đến các cụm từ như “mới”, “sáng tạo” hay “công nghệ” mà nhấn mạnh vào việc luôn tìm kiếm mô hình kinh doanh bởi lý do từ sự không chắc chắn về vấn đề và giải pháp mà DN đang tìm kiếm. Tuy30
nhiên để mở rộng mô hình kinh doanh, một điều ngầm hiểu cho rằng chỉ có thể đạt được thông qua công nghệ, nơi mà máy tính sẽ làm việc hộ con người. Vậy tổng kết lại quan điểm của Blank về khái niệm DNKNST đó là hình thức tổ chức có mô hình kinh doanh có tính lặp và có thể mở rộng nhờ sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.
Theo Cassar và cộng sự (2004), từ “Start-up” ban đầu được hiểu là hình thức doanh nghiệp ở giai đoạn sớm, dần dần khái niệm về hình thức doanh nghiệp này được thu hẹp theo hướng là những doanh nghiệp năng động, thích ứng nhanh và có áp dụng công nghệ. Theo Eric Ries (2010) doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là một tổ chức được điều hành bởi con người và thành lập để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ mới trong điều kiện rất không chắc chắn. Do đó Ries nhấn mạnh các công ty Start-up tập trung vào tính mới của sản phẩm và dịch vụ đồng thời nhấn mạnh vào tính rủi ro cao mà DN phải đối diện.
Điểm chung của các khái niệm trên đều tập trung vào mục tiêu chính của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là tìm kiếm mô hình kinh doanh mới để tăng trưởng nhanh và chủ yếu dựa trên công nghệ. Một số doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo điển hình trên thế giới như Facebook, Apple, Amazon, Netflix và Google, đây là nhóm doanh nghiệp đặt nền móng cũng như truyền cảm hứng cho giới doanh nhân và c nhà nghiên cứu trên thế giới. Có thể thấy, những doanh nghiệp này đều dựa trên công nghệ, có tốc độ tăng trưởng nhanh và cuối cùng đều được hậu thuẫn bởi các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Tại Việt Nam, định nghĩa doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (2018) đó là “Doanh nghiệp Doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập để thực hiện ý tưởng trên cơ sở khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới và có khả năng tăng trưởng nhanh”. Có thể tóm tắt khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp có tư cách pháp lý, hoạt động dựa trên việc khai thác tài sản trí tuệ với triển vọng tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên khái niệm này tiếp cận doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp nhỏ và vừa, điều này hạn chế tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng thời quy định khá chặt về tài sản trí tuệ, điều mà phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa chủ động đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Chính vì vậy, theo cách tiếp cận của luận án, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là doanh nghiệp được cấp phép hoạt động theo quy định của pháp luật, hình thành với mục tiêu kinh doanh giải pháp sáng tạo giải quyết vấn đề cụ thể của thị trường và hoạt động với mô hình kinh doanh có tính lặp, có khả năng tăng trưởng nhanh.
Trong khuôn khổ của luận án, thuật ngữ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo được sử dụng với hàm ý là doanh nghiệp được hình thành dựa trên việc tạo ra hoặc ứng dụng kết quả nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hoá và có khả năng tăng trưởng nhanh. Cụ thể, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo trong phạm vi nghiên cứu của luận án là các doanh nghiệp: (i) đã đăng ký kinh doanh; (ii) chưa thực hiện phát hành cổ phần công khai lần đầu (IPO); (ii) thời gian hoạt động dưới 10 năm; (iv) có yếu tố công nghệ trong mô hình kinh doanh.
Nguồn: Luận án Quản trị kinh doanh: “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam”