1/ Thông tin bài báo
- Tên bài báo: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TẠI ĐẠI HỌC HUẾ
- Tác giả: Lê Văn Bình, Hoàng Văn Liêm
- Số trang: 169-185
- Năm: 2019
- Nơi xuất bản: Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển
- Từ khoá: cơ chế tự chủ, tài chính, tự chủ tài chính, đại học, giáo dục đại học, Đại học Huế
2/ Nội dung chính
Bài báo tập trung nghiên cứu thực trạng cơ chế tự chủ tài chính (TCTC) tại Đại học Huế (ĐHH) dựa trên số liệu thứ cấp và sơ cấp, kết hợp khảo sát ý kiến của cán bộ quản lý và nhân viên kế toán. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ĐHH đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc phân cấp quản lý tài chính, thực hiện tự chủ về nguồn thu, chi, tiền lương và các quỹ. Cụ thể, ĐHH đã chủ động hơn trong quản lý tài chính, sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) hiệu quả và tiết kiệm, đồng thời tăng nguồn thu thông qua đa dạng hóa các hoạt động sự nghiệp. Tuy nhiên, do mô hình đại học 2 cấp, việc thực hiện TCTC vẫn còn nhiều khó khăn, từ cơ chế, chính sách đến quá trình triển khai. Bài báo chỉ ra rằng, dù đã có những thành tựu, Đại học Huế vẫn phụ thuộc vào nguồn NSNN, mức thu học phí còn thấp và việc khai thác các nguồn thu khác còn hạn chế. Cơ cấu chi chưa hợp lý khi ưu tiên chi lương và chính sách cho sinh viên, trong khi việc phân bổ các khoản chi khác còn chưa cân đối.
Bài báo cũng phân tích chi tiết về cơ chế tự chủ về nguồn thu, mức thu của Đại học Huế trong giai đoạn 2013-2017. Nguồn thu của ĐHH tăng bình quân 3,8%, trong đó nguồn thu sự nghiệp tăng 6,7%. Tuy nhiên, nguồn thu từ NSNN vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Về cơ cấu chi, chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn (76,7%-91,4%), chủ yếu là chi lương và hoạt động chuyên môn. Bên cạnh đó, bài báo đánh giá cơ chế tự chủ về tiền lương, tiền công, thu nhập tăng thêm và việc sử dụng kết quả tài chính trong năm. Tiền lương, tiền công tăng 8,5%/năm, nhưng thu nhập tăng thêm chỉ tăng 2,5%/năm và có sự chênh lệch giữa các đơn vị. Việc trích lập và sử dụng các quỹ tăng trung bình 16,9% và 6,3% mỗi năm, nhưng vẫn còn những bất cập như chưa điều hành quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp để đối ứng vốn xây dựng cơ bản. Đánh giá về mức tự bảo đảm chi thường xuyên, bài báo cho thấy ĐHH có mức tự bảo đảm trung bình 78,5% và có sự khác biệt giữa các đơn vị trực thuộc.
Dựa trên đánh giá thực trạng và các quy định pháp luật, bài báo đề xuất các nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế TCTC tại Đại học Huế. Các giải pháp bao gồm: hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý tài chính (xây dựng đề án đơn vị dự toán cấp 1, phân cấp mạnh hơn cho các đơn vị trực thuộc, tham khảo kinh nghiệm các đại học khác); hoàn thiện cơ chế tự chủ về nguồn thu (tăng cường khai thác học phí, đa dạng hóa hình thức đào tạo, tăng cường quảng bá tuyển sinh, phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ, thu hút tài trợ); hoàn thiện cơ chế sử dụng nguồn tài chính (tinh giản biên chế, tăng chi cho giảng dạy, thống nhất các khoản chi); hoàn thiện cơ chế tiền lương, thu nhập tăng thêm, sử dụng kết quả tài chính (điều hành chi trả thu nhập tăng thêm và phúc lợi thống nhất, điều hành quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp). Ngoài ra, bài báo còn đề xuất lựa chọn loại hình tự chủ tài chính phù hợp với từng đơn vị và yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm ban hành các văn bản pháp quy liên quan. Các giải pháp này nhằm giúp ĐHH chủ động hơn về tài chính, nâng cao chất lượng đào tạo, và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của xã hội.