1. Thông tin Nghiên cứu khoa học
- Tên nghiên cứu tiếng Anh: Entrepreneurial uncertainty during the Covid-19 crisis: mapping the temporal dynamics of entrepreneurial finance
- Tên nghiên cứu tiếng Việt: Sự bất định trong khởi nghiệp trong khủng hoảng Covid-19: Lập bản đồ động lực thời gian của tài chính khởi nghiệp
- Tác giả: Ross Brown, Augusto Rocha
- Số trang: 28
- Năm: 2020
- Nơi xuất bản: Journal of Business Venturing Insights, vol. 14, e00174, Elsevier Inc.
- Chuyên ngành học: Kinh doanh, Tài chính, Khởi nghiệp
- Từ khoá: Đầu tư vốn cổ phần, Khủng hoảng, Covid-19, Trung Quốc, Dữ liệu thời gian thực, Chính sách công
2. Nội dung chính
Nghiên cứu này tập trung vào việc minh họa cách sự bất định kinh niên do các sự kiện khủng hoảng gây ra ảnh hưởng đến tính khả dụng của các nguồn tài chính khởi nghiệp cho các công ty khởi nghiệp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Để khám phá lập luận này, bài viết xem xét dữ liệu thời gian thực (RTD) từ Crunchbase, tập trung vào các khoản đầu tư tài chính khởi nghiệp ở Trung Quốc trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Covid-19 diễn ra.
Bài viết chỉ ra rằng các khoản đầu tư vốn cổ phần đã giảm mạnh ngay sau khi virus Covid-19 bùng phát, dẫn đến sự sụt giảm 60% so với năm trước về tổng khối lượng đầu tư được huy động giữa quý 1 năm 2019 và quý 1 năm 2020. Điều quan trọng là, nghiên cứu phát hiện ra rằng các khoản đầu tư giai đoạn đầu (seed investments) giảm mạnh nhất, cho thấy các công ty khởi nghiệp mới nổi là những đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng. Trong khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC) tác động mạnh đến thị trường nợ, thì bản chất quan hệ của các khoản đầu tư vốn cổ phần có thể khiến tài chính khởi nghiệp dễ bị ảnh hưởng hơn bởi những biến động lớn do cuộc khủng hoảng Covid-19 gây ra.
Nhìn chung, các nhà hoạch định chính sách doanh nghiệp cần phải điều chỉnh tốt hơn trong việc giám sát các nguồn dữ liệu thời gian thực để giảm thiểu sự bất định kinh niên trong khởi nghiệp thông qua các phản ứng chính sách chiến lược. Knight (1921) đã chỉ ra rằng sự bất định từ lâu đã được công nhận là một trụ cột trung tâm ảnh hưởng đến việc ra quyết định kinh doanh. Milliken (1987) định nghĩa sự bất định là “nhận thức [về] khả năng dự đoán kết quả trong môi trường kinh doanh nói chung một cách chính xác do thiếu thông tin hoặc không có khả năng phân biệt giữa dữ liệu liên quan và không liên quan” (tr. 136). McMullen và Shepherd (2006) cũng như Block và Sandner (2009) cho rằng, trong các cú sốc và sự kiện khủng hoảng, mức độ bất định leo thang với tốc độ nhanh chóng, tác động của chúng trở nên suy nhược cao đối với các doanh nhân và các tác nhân khởi nghiệp như ngân hàng và nhà đầu tư.
Trong những năm gần đây, mức độ bất định đã tăng lên đáng kể do các cú sốc như các cuộc tấn công khủng bố lớn (ví dụ: 11/9), các cuộc chiến tranh vùng Vịnh, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (GFC), Brexit và gần đây nhất là đại dịch Covid-19 hiện đang nhấn chìm nền kinh tế toàn cầu (Buchanan và Denyer, 2013; Wenzel và cộng sự, 2020). Goldin và Mariathasan (2015) chỉ ra rằng toàn cầu hóa có nghĩa là nền kinh tế thế giới hiện nay phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và dễ bị tổn thương hơn trước các cú sốc hệ thống như đại dịch Covid-19.
Dữ liệu thời gian thực (RTD) là thông tin được thu thập và cung cấp ngay lập tức khi thu thập và thuộc phạm vi rộng hơn của “dữ liệu lớn”, biểu thị sự tăng trưởng phổ biến của dữ liệu được hỗ trợ bởi những tiến bộ trong công nghệ kỹ thuật số (Kitchin, 2014). Mặc dù các học giả kinh tế, tài chính và tiếp thị đã nhanh chóng chấp nhận “dữ liệu lớn” như một phần của kho vũ khí phương pháp luận của họ (Varian, 2014; Cimadomo, 2016; Erevelles và cộng sự, 2016), nhưng các học giả khởi nghiệp đã chậm hơn trong việc nắm bắt cơ hội này. Obschonka và Audretsch (2019) cũng như Schwab và Zhang (2019) ngày càng nhận ra rằng các nguồn dữ liệu mới lạ và tức thời này cho phép “đóng góp đáng kể cho nghiên cứu khởi nghiệp” (tr. 843). Bài viết lập luận rằng RTD cung cấp một cơ chế quan trọng để các nhà hoạch định chính sách hiểu rõ hơn về tác động của các cú sốc, chẳng hạn như cuộc khủng hoảng Covid-19, đối với hoạt động khởi nghiệp.
Bài viết đặt mục tiêu trả lời câu hỏi nghiên cứu chính: “Sự bất định do đại dịch Covid-19 gây ra đã ảnh hưởng đến mức độ và động lực của tài chính khởi nghiệp ở Trung Quốc như thế nào?”. Mặc dù việc đo lường sự bất định đặt ra những thách thức lớn, nhưng bài viết mong muốn đánh giá tác động của tài chính khởi nghiệp kể từ khi virus bùng phát. Tầm quan trọng của tài chính khởi nghiệp đối với các công ty khởi nghiệp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) sáng tạo (Hall và Lerner, 2010) khiến nó trở thành một phong vũ biểu mạnh mẽ về cách sự bất định đã ảnh hưởng đến hoạt động khởi nghiệp. Để hiểu rõ hơn về quản trị tài chính trong các doanh nghiệp, bạn có thể tham khảo thêm các nghiên cứu khác.
Nguồn RTD được khám phá trong bài viết hiện tại là dữ liệu Crunchbase, đã đối chiếu 13.729 giao dịch tài trợ ở Trung Quốc từ năm 1994 đến quý 1 năm 2020. Thông qua sự kết hợp giữa trí tuệ nhân tạo, học máy, các nhà phân tích dữ liệu, những người đóng góp cộng đồng và mạng lưới nhà đầu tư với hơn 3.700 công ty đầu tư toàn cầu, Crunchbase phát sóng thông tin thực tế theo thời gian thực về các vòng tài trợ do các công ty trên khắp thế giới thực hiện.
Trong khi phần lớn các cuộc tranh luận về tác động của Covid-19 cho đến nay tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) hiện có (Bartik và cộng sự, 2020), thì các công ty khởi nghiệp mới nổi lại nhận được sự chú ý ít hơn so với so sánh (Kuckertz và cộng sự, 2020). Do đó, bài viết đóng góp quan trọng vào tài liệu về khởi nghiệp bằng cách kiểm tra nguồn cung tài chính khởi nghiệp ở Trung Quốc và cách nó bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Covid-19. Bài viết này tập trung vào vấn đề huy động vốn cho các doanh nghiệp, một yếu tố quan trọng để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh trong mọi hoàn cảnh.
Kết quả cho thấy rằng tác động của cuộc khủng hoảng Covid-19 đã ảnh hưởng đáng kể đến tài chính khởi nghiệp ở Trung Quốc với một mức độ lớn hơn đáng kể so với các thị trường đã thiết lập khác như Hoa Kỳ (xem Howell và cộng sự, 2020). Nó cho thấy rằng các công ty bị ảnh hưởng nặng nề nhất là các công ty khởi nghiệp được hưởng lợi nhiều nhất từ tài chính seed stage giai đoạn đầu. Bối cảnh thực nghiệm cho nghiên cứu này là Trung Quốc, quốc gia đầu tiên gặp phải một đợt bùng phát lớn của virus Covid-19, có khả năng cung cấp những hiểu biết thực nghiệm có giá trị về cách các quốc gia khác trên toàn cầu có thể bị ảnh hưởng tương tự.
Phân tích dữ liệu từ Crunchbase cho thấy rõ ràng rằng cuộc khủng hoảng Covid-19 đang có tác động rõ rệt và đáng kể đến thị trường tài chính vốn cổ phần trong nền kinh tế Trung Quốc. Nhìn chung, giữa quý đầu tiên của năm 2019 và quý đầu tiên của năm 2020, Trung Quốc đã chứng kiến sự sụt giảm giá trị đầu tư tài chính khởi nghiệp giảm tới 60%. Các giao dịch VC giai đoạn cuối lớn nhất đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng. Mặc dù các loại giao dịch này đã tăng đều đặn trong suốt giai đoạn 2015-2019, nhưng giữa quý cuối cùng của năm 2019 và quý đầu tiên của năm 2020, các giao dịch này đã giảm mạnh. Mức đầu tư đã giảm 42% giữa quý đầu tiên của năm 2019 và quý đầu tiên của năm 2020.
Đối với các giao dịch giai đoạn đầu, một mô hình tương tự xuất hiện như với các giao dịch giai đoạn sau ở trên. Các giao dịch giai đoạn đầu này đã tăng lên đáng kể trong năm năm qua, mặc dù theo một cách khá lộn xộn, đạt đỉnh điểm vào quý thứ ba của năm 2018. Lưu lượng giao dịch của các khoản đầu tư này vẫn khá ổn định trong năm 2019 cho đến quý cuối cùng khi nó giảm mạnh. Giữa quý cuối cùng của năm 2019 và quý đầu tiên của năm 2020, lưu lượng giao dịch đã giảm hai phần ba từ 224 xuống dưới 100 giao dịch. Mức đầu tư đã giảm 77% giữa quý đầu tiên của năm 2019 và quý đầu tiên của năm 2020.
Trái ngược với các giao dịch lớn hơn được nêu trong Hình 1 và 2, sự tăng trưởng của các khoản đầu tư seed stage ở Trung Quốc trong năm năm qua không ngoạn mục bằng. Các công ty khởi nghiệp sáng tạo thường nhận được hình thức tài chính này để giúp họ phát triển. Các giao dịch này đã tăng lên đáng kể trong năm 2018 khi chúng tăng gần gấp bốn lần (từ hơn 100 đến hơn 400 giao dịch) giữa quý đầu tiên của năm 2018 và quý thứ ba của cùng năm. Giữa quý 1 và quý 4 năm 2019, lưu lượng giao dịch đã giảm hai phần ba từ 226 xuống 71. Xu hướng giảm này càng trở nên trầm trọng hơn giữa quý cuối cùng của năm 2019 và quý đầu tiên của năm 2020 ở đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng. Trên thực tế, các giao dịch seed stage gần như biến mất trong quý đầu tiên của năm 2020 xuống dưới 20 giao dịch, thể hiện mức giảm 86% so với năm trước.
Do tài chính seed stage chủ yếu được phân bổ cho các loại công ty khởi nghiệp/SMEs mới nổi và không rõ ràng về thông tin nhất, có lẽ người ta đã mong đợi thấy các loại giao dịch này bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng.
Dữ liệu cho thấy tỉnh phải chịu sự sụt giảm lớn nhất là tỉnh Hà Bắc, chứng minh rằng cuộc khủng hoảng đã tác động tiêu cực đến mức đầu tư trên toàn quốc, không chỉ ở các khu vực liên quan nhiều nhất đến sự bùng phát của virus. Tuy nhiên, Hình 4 cho thấy rõ ràng rằng một số tỉnh nơi virus ảnh hưởng nghiêm trọng nhất cũng phải chịu sự sụt giảm nặng nề nhất về tài chính khởi nghiệp (tức là Hồ Bắc, Chiết Giang và Hồ Nam). Dữ liệu không gian cũng cho thấy rằng giai đoạn tài trợ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất ở các khu vực này là vòng tài trợ seed, đã giảm hơn 90% ở nhiều tỉnh trong top mười cho các giao dịch tài chính khởi nghiệp như Hà Bắc và Bắc Kinh.
3. Kết luận
Kể từ khi virus Covid-19 bùng phát ở Trung Quốc, đã có sự sụt giảm mạnh và đáng kể về mức độ đầu tư vốn cổ phần tổng hợp (tức là giảm 60% so với năm trước giữa quý 1 năm 2019 và quý 1 năm 2020) ở Trung Quốc trên tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư. Mức độ nghiêm trọng của sự sụt giảm này vượt xa sự sụt giảm được chứng kiến ở các thị trường đã thiết lập hơn cho tài chính khởi nghiệp như Hoa Kỳ (Howell và cộng sự, 2020). Sự suy giảm này cũng lớn gấp ba lần so với quy mô suy giảm được phát hiện bởi các học giả sau cuộc khủng hoảng tài chính (Block và Sandner, 2009), cho thấy rằng sự bất định do cuộc khủng hoảng Covid-19 gây ra có khả năng vượt xa đáng kể so với GFC. Tác động này rõ rệt nhất đối với các công ty khởi nghiệp mới nổi nhất (tức là không rõ ràng nhất và cần tương tác chặt chẽ nhất giữa nhà đầu tư và doanh nhân), xác nhận một lượng lớn tài liệu suy luận rằng sự bất định có những hậu quả gây tổn hại sâu sắc đối với các công ty khởi nghiệp và SMEs sáng tạo và không rõ ràng về thông tin nhất (Doshi và cộng sự, 2018; Howell và cộng sự, 2020). Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khủng hoảng cũng cần được xem xét và xây dựng một cách hiệu quả.
Nếu các doanh nhân và nhà đầu tư không thể gặp gỡ, tương tác và trò chuyện trực tiếp, các quy trình đầu tư dựa trên mạng lưới sâu sắc, quan hệ và được trung gian hóa về không gian này hỗ trợ các nguồn tài chính khởi nghiệp có thể ngừng hoạt động đầy đủ trong một cuộc khủng hoảng như đại dịch. Nó cũng đặt ra những câu hỏi quan trọng liên quan đến các loại hành vi khởi nghiệp được các công ty khởi nghiệp triển khai trong một cuộc khủng hoảng. Các lý thuyết hành vi khởi nghiệp như bricolage dường như là những ứng cử viên rõ ràng để khám phá thêm các phản ứng khởi nghiệp đối với sự khan hiếm nguồn lực do các tình huống khủng hoảng gây ra (Baker và Nelson, 2005; Kuckertz và cộng sự, 2020), đặc biệt là khi cần có các phương pháp thử nghiệm đối với việc tài trợ cho các công ty khởi nghiệp sáng tạo (Brown và cộng sự, 2018). Để hiểu rõ hơn về lý thuyết hành vi, bạn có thể tìm đọc thêm các bài viết liên quan.
Các nguồn RTD này có thể mang lại những hiểu biết vô giá để hỗ trợ các phản ứng chính sách nhanh chóng nhằm giải quyết các loại giai đoạn khủng hoảng đang diễn ra nhanh chóng này với các can thiệp chính sách được nhắm mục tiêu chiến lược. Ví dụ, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc có thể cung cấp các ưu đãi đầu tư có giới hạn thời gian để giúp giải quyết sự sụt giảm lớn về tài chính khởi nghiệp được phát hiện, đặc biệt là đối với các khoản đầu tư seed stage ở các tỉnh bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Một cách tiếp cận khác là các nhà hoạch định chính sách tạo điều kiện tương tác trực tuyến giữa các doanh nhân và nhà đầu tư thông qua các địa điểm họp trực tuyến an toàn tương tự như các nền tảng gây quỹ vốn cổ phần tư nhân. Hình thức môi giới trực tuyến mới lạ này có thể giúp giảm bớt các vấn đề thông tin liên quan đến khoảng cách tài chính trong một cuộc khủng hoảng như cuộc khủng hoảng Covid-19.