Khuyến mãi đặc biệt
  • Giảm 10% phí tải tài liệu khi like và share website
  • Tặng 1 bộ slide thuyết trình khi tải tài liệu
  • Giảm 5% dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ của Luận Văn A-Z
  • Giảm 2% dịch vụ viết thuê luận án tiến sĩ của Luận Văn A-Z

Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm

20.000 VNĐ

Download Luận văn thạc sĩ Luật: Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm

Mã: ThS30.008 Danh mục: , Từ khóa: , , , Loại tài liệu: Luận văn thạc sĩChuyên Ngành: LuậtNơi xuất bản: Trường Đại học Kinh Tế TpHCMNăm: 2020Tên tác giả: Nguyễn Thị Kiều Hạnh
Số trang: 108

Download Luận văn thạc sĩ Luật: Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm

Tranh chấp chia TS chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình là quan hệ pháp luật gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn. Đáng chú ý, nguyên nhân là trong một thời gian dài, pháp luật chưa quy định thống nhất về quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cộng với chính sách pháp luật về quản lý đất đai, quản lý hành chính có nhiều thay đổi. Trong khi đó, tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình thường có một độ lùi nhất định so với thời gian hộ gia đình được cấp quyền sử dụng đất.

Luận văn đã phân tích quy định cuả pháp luật về chia TS chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, những khó khăn vướng mắc gặp phải trên thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Từ đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan.

Từ khóa: Quyền sử dụng đất, tài sản chung, hộ gia đình, chia tài sản chung là quyền sử dụng đất

ThS30.008_Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm

MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Tóm tắt - Abstract LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu............................................................................... 2 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................... 4 4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu ................................................. 5 5. Kết cấu của Luận văn.............................................................................. 6 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH ................................................ 7 1.1. TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH............................................................................................................. 7 1.1.1. Khái niệm về tài sản chung là Quyền sử dụng đất của hộ gia đình.. 7 1.1.1.1. Khái niệm tài sản thuộc sở hữu chung ........................................... 7 1.1.2. Tranh chấp chia tài sản chung là Quyền sử dụng đất của hộ gia đình ....................................................................................................................... 12 1.1.3. Lược sử Pháp luật về chia tài sản chung là Quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình............................................................................................................ 13 1.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH LÀM CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH .................................................................... 20 1.2.1. Quy định về căn cứ xác lập tài sản chung là Quyền sử dụng đất của hộ gia đình .....................................................................................................20 1.2.2. Quy định về căn cứ để xác định các thành viên có quyền sử dụng đất của hộ gia đình ...............................................................................................22 1.2.3. Quy định về nguyên tắc chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình .....................................................................................................25 1.2.4. Về đối tượng quyền sử dụng đất được chia.....................................27 1.2.5. Về quy định diện tích đất tối thiểu sau khi tách thửa ......................27 1.2.6. Thủ tục, thẩm quyền giải quyết tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình tại Tòa án .....................................................28 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................31 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ..............................................32 2.1. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG- THÁP CHÀM ........................................................32 2.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến Quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong giải quyết tranh chấp tại Toà án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm .....................................................................................33 2.1.2. Vướng mắc từ người trực tiếp quản lý tài sản chung là thành viên cuả hộ gia đình .....................................................................................................40 2.1.3. Thực tiễn định giá tài sản chung là quyền sử dụng đất khi giải quyết tranh chấp ...................................................................................................44 2.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ........................... 48 2.2.1. Về hoàn thiện các quy định pháp luật làm căn cứ giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình tại toà án nhân dân ............................................................................................................... 48 2.2.2. Bổ sung hướng dẫn về xử lý tình huống khi có thành viên trong hộ không có mặt tại địa phương................................................................................ 52 2.2.3. Giải pháp xử lý vướng mắc trong việc định giá tài sản khi chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình ................................................. 54 2.2.4. Kiến nghị giải pháp xử lý những vướng mắc liên quan đến người trực tiếp quản lý tài sản........................................................................................ 54 2.2.5. Kiến nghị bổ sung quy định nghĩa vụ của công chứng viên tại Luật Công chứng để hạn chế rủi ro đối với việc nhận chuyển nhượng Quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình ............................................................................................... 57 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................ 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT QSDĐ : Quyền sử dụng đất. HGĐ : Hộ gia đình. LĐĐ : Luật Đất đai. BLDS : Bộ luật Dân sự. BLTTDS: Bộ luật Tố tụng Dân sự. TAND : Tòa án nhân dân TÓM TẮT Tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình là quan hệ pháp luật gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn. Đáng chú ý, nguyên nhân là trong một thời gian dài, pháp luật chưa quy định thống nhất về quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cộng với chính sách pháp luật về quản lý đất đai, quản lý hành chính có nhiều thay đổi. Trong khi đó, tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình thường có một độ lùi nhất định so với thời gian hộ gia đình được cấp quyền sử dụng đất. Luận văn đã phân tích quy định cuả pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, những khó khăn vướng mắc gặp phải trên thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Từ đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp, và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan. Từ khóa: Quyền sử dụng đất, tài sản chung, hộ gia đình, chia tài sản chung là quyền sử dụng đất ABSTRACT The dispute on dividing common property in the household’s rights to land use is a legal relationship with many practical obstacles. Notably, it has been affected by the fact that the laws anh policies on administration and land management frequently change; however, they remain to be not consistent for severals years. Besides, such disputes often have a certain setback compared to the time the households are granted the rights to land use. The thesis analyses also the provisions on dividing common property in the household’s right to land use as well as the practical difficulties encountered at the People’s Court of Phan Rang- Thap Cham city. The thesis thus supplies some suggestions to solve these problems, bring efficiencies to the current dispute settlement, and protect the relevant parties’ legitimate rights and interests. Key word: The right to land use, common property, the household, dividing common property in the right to land use 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với đặc trưng làng xã nông nghiệp, hộ gia đình là thiết chế tồn tại lâu đời của Việt Nam. Quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình lần đầu tiên được nhắc đến tại Luật Đất đai năm 1987 với khái niệm “hộ nông dân”, theo đó hộ nông dân là một trong những đối tượng được nhà nước giao đất. Quyền sử dụng đất của hộ gia đình tiếp tục được quy định trong Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013, cùng với các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005, năm 2015. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không còn quy định hộ gia đình, tổ hợp tác như là một chủ thể độc lập của quan hệ dân sự nữa. Dù vậy, quyền sử dụng đất đã cấp cho hộ gia đình vẫn tồn tại trên thực tế. Từ đó các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình, trong đó có tranh chấp về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình vẫn là một trong các loại tranh chấp phổ biến, có nhiều vướng mắc nhất của Tòa án hiện nay. Cho đến này, cả các nhà nghiên cứu pháp lý lẫn trong thực tiễn xét xử vẫn còn tranh nhiều ý kiến thiếu thống nhất về các vấn đề liên quan đến hộ gia đình sử dụng đất như: Thế nào là thành viên trong hộ gia đình? Có bắt buộc phải có quan hệ huyết thống giữa các thành viên trong hộ gia đình không? Con nuôi, dù được khai sinh họ tên là cha mẹ nuôi nhưng chưa hoàn thiện thủ tục đăng ký theo Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì có được xem là thành viên trong hộ gia đình không? Có phải đối tượng của quyền sử dụng đất của hộ gia đình chỉ là đất nông nghiệp? Quyền sử dụng đất của hộ gia đình được tính từ thời điểm nào? .... Tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình có nội dung liên quan đến nhiều quy định pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong vụ án chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình đôi khi còn phải giải quyết các quan hệ pháp luật như chia thừa kế, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp tài 2 sản,… Các tranh chấp thường xảy ra sau khi quyền sử dụng đất của hộ gia đình khá lâu, do đó việc giải quyết thường phức tạp và có nhiều vướng mắc. Nhận thấy việc nghiên cứu một cách thấu đáo các quy định về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình là nhu cầu cần thiết để góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình nói chung và tranh chấp về chia tài sản là quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tác giả đã chọn đề tài “pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm” làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến chủ đề tranh chấp về quyền sử dụng đất nói chung và chia quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình nói riêng, đã có những công trình nghiên cứu xoay quanh chủ đề như sau: Luận án Tiến sỹ Luật học “Hợp đồng chuyển nhượng đất ở theo pháp luật hiện hành của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thùy Trang, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2017. Trên cơ sở đánh giá các quy định cuả pháp luật trong lịch sử và hiện hành liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng đất ở, tác giả đã xây dựng khái niệm “hợp đồng chuyển nhượng đất ở”, phân tích đặc điểm của hợp đồng chuyển nhượng đất ở, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển nhượng đất ở, nhận xét các vướng mắc khó khăn trong áp dụng pháp luật và đề xuất kiến nghị phương án tháo gỡ. Luận văn Thạc sỹ “Áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, qua thực tiễn giải quyết tại Tòa án trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Thị Lan Phương, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2017. Luận văn đã nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về áp dụng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, qua thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh 3 Quảng Bình, tác giả đã nêu thực trạng áp dụng và đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp quyên sử dụng đất. Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về quyền cuả người sử dụng đất ở Việt Nam” của tác giả Phạm Hương Thảo, bảo vệ tại Đại học quốc Gia Hà Nội, Khoa Luật vào năm 2015. Luận văn phân tích chế độ sở hữu đất đai và quyền của người sử dụng đất, các quy định cuả pháp luật về căn cứ xác lập quyền sử dụng đất, những bất cập trong thực tiễn áp dụng và đề xuất kiến nghị hoàn thiện. Luận văn Thạc sỹ Luật học, “Thực trạng thi hành pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” của tác giả Ngô Thúy Hằng, bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015. Luận văn nghiên cứu phân tích các quy định của pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phân tích thực trạng áp dụng tại quận Đống Đa, Hà Nội, đề xuất các giải pháp tháo gỡ vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhóm tác giả Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Vĩnh Diện có bài viết “So sánh, đối chiếu giữa nội dung Luật Đất đai năm 2013 và Luật Đất đai năm 2003 về giải quyết tranh chấp đất đai” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 24 năm 2015. Bài viết nêu những điểm mới tiến bộ, chặt chẽ, khoa học của Luật Đất đai năm 2013 so với Luật Đất đai năm 2003 về giải quyết tranh chấp đất đai, cụ thể trong nội dung hòa giải tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Tác giả Nguyễn Hải An có bài viết “Những khó khăn vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình- Nguyên nhân và giải pháp” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 2 và số 3 năm 2015. Trong bài viết này tác giả đã viết về những khó khăn vướng mắc trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất của hộ gia đình và đề xuất những giải pháp tháo gỡ. Tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải có bài viết “Giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo tố tụng dân sự ở nước ta hiện nay” đăng trên 4 Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử1. Bài viết nêu ra những quy định về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục tố tụng dân sự, trình tự, thủ tục và thẩm quyền gỉải quyết tranh chấp, những điểm mới trong giải quyết tranh chấp theo quy định tại Luật Đất đai năm 2013. Báo Pháp luật online ngày 17/4/2015 có bài viết “Xác định hộ gia đình sử dụng đất: Sổ hộ khẩu hay quan hệ huyết thống?”2. Bài báo qua việc nêu ví dụ những tranh chấp cụ thể, chỉ ra những bất cập trong việc xác định thế nào là thành viên của hộ gia đình được cấp quyền sử dụng đất, đồng thời áp dụng khoản 3 điều 29 Luật Đất đai năm 2013 làm căn cứ xác định thành viên trong hộ. Như vậy, cho đến nay, các công trình nghiên cứu còn riêng lẻ, tập trung vào mảng tranh chấp đất đai, hoặc chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ, hoặc chỉ đề cập đến phạm vi một vài địa phương, chưa đề cập đến quan hệ pháp luật tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình một cách hệ thống, phân tích những vướng mắc và đề xuất giải pháp tháo gỡ. Vì thế việc nghiên cứu đề tài “Tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm” là cần thiết và không trùng lắp với các nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu : Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm” hướng đến các mục đích sau đây: 1Https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/giai-quyet-tranh-chap-ve-quyen-so-huu-nha-va-quyen-su-dung-dat- theo-to-tung-dan-su-o-nuoc-ta-hien-nay, ngày 11/3/2019, truy cập ngày 15/9/2019 2https://baophapluat.vn/dieu-tra-bd/xac-dinh-ho-gia-dinh-su-dung-dat-so-ho-khau-hay-quan-he-huyet-thong- 215810.html, truy cập ngày 15/9/2019 5 Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình. Thứ hai, làm sáng tỏ và phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình, phân tích những vướng mắc khi thực hiện giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình nhằm làm cơ sở để giải quyết hợp lý các tranh chấp này tại toà án nhân dân. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình và thực tiễn giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về không gian nghiên cứu: mặt dù đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành nói chung về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình, tuy nhiên, khi thực hiện khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật này, Luận văn chỉ tập trung khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua hoạt động xét xử tại toà án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm của tỉnh Ninh Thuận. Về thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu bằng cách thu thập các thông tin, dữ liệu, tình huống hay vụ việc xảy ra từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực pháp luật đến nay (từ ngày 1/7/2014 đến nay). 4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể của Luận văn, Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích- 6 tổng hợp, phương pháp dự báo và đánh giá tác động… Các phương pháp này được sử dụng cụ thể như sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp và lịch sử được sử dụng tại chương 1 của Luận văn nhằm làm rõ các quy định của pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình. - Phương pháp phân tích tình huống, phân tích bản án được sử dụng ở phần 2.1 của chương 2 nhằm khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình và phân tích những vướng mắc chưa được giải quyết. - Phương pháp dự báo và đánh giá tác động được sử dụng tại phần 2.2 của chương 2 nhằm đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình. 5. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo cùng các phụ lục, do Luận văn được thực hiện theo định hướng ứng dụng nên nội dung chính của Luận văn bao gồm 2 chương: Chương 1: Khái quát pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, khó khăn và giải pháp khắc phục. 7 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH 1.1. TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN CHUNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA HỘ GIA ĐÌNH 1.1.1. Khái niệm về tài sản chung là Quyền sử dụng đất của hộ gia đình 1.1.1.1. Khái niệm tài sản thuộc sở hữu chung Một trong những điều khác biệt nhất giữa con người và loài vật là con người có tài sản và quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu tài sản là mối quan tâm cơ bản của con người. Sự ham muốn sở hữu tài sản khiến xã hội con người từ chỗ mông muội sơ khai chuyển sang trồng trọt chăn nuôi, lao động để tạo ra của cải phục vụ cho nhu cầu của mình, sau đó mới chuyển sang nhu cầu trao đổi, mua bán, rồi hình thành thị trường sản xuất kinh doanh, tạo nên nguồn vốn tư bản phát triển không ngừng. Như vậy tài sản và quyền sở hữu có thể xem như là động cơ cho sự phát triển của xã hội loài người3. Theo quy định tại khoản 1 điều 105 BLDS, “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Vật, tiền, giấy tờ có giá có thể coi là những vật hữu hình, có thể cầm nắm đo đếm được; còn quyền tài sản chỉ được xem là tồn tại khi được ghi nhận bằng một hình thức được pháp luật thừa nhận. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân riêng lẻ hoặc đối với trường hợp từ hai người trở lên cùng sở hữu tài sản thì pháp luật có khái niệm tài sản thuộc sở hữu chung. Tài sản chung bao gồm tài sản thuộc sở hữu chung theo phần và tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Theo quy định tại khoản 1 điều 209 BLDS, “sở hữu chung theo phần là hình thức sở hữu mà trong đó phần quyền của mỗi chủ sở hữu được 3 “Những bản văn đầu tiên trong lịch sử không mang ý nghĩa triết học, thơ phú, huyền thoại, luật pháp hoặc thậm chí là những chiến thắng hoàng gia. Chúng là những tài liệu kinh tế buồn tẻ, ghi lại việc trả thuế, sự tích lũy các món nợ và quyền sở hữu tài sản”, Yuval Noah Harari, 2017, “Lược sử loài người”, Nhà xuất bản Tri thức, trang 57. Dịch giả: Nguyễn Thủy Chung. 8 xác định đối với tài sản chung”. Cụ thể là mỗi chủ sở hữu được xác định phần quyền của họ trong khối tài sản chung, ví dụ ½, 1/3,… Ngoài ra, pháp luật còn có quy định về hình thức sở hữu chung hợp nhất, trong đó phần quyền của các chủ sở hữu chung không xác định được, ví dụ như tài sản chung cuả vợ chồng. Mặt khác, xuất phát từ việc hợp tác góp vốn kinh doanh kiếm lợi nhuận trên thực tế, pháp luật dân sự còn quy định hình thức sở hữu chung hỗn hợp, theo điều 315 Bộ luật Dân sự. Một dạng hình thức sở hữu chung là sở hữu chung của cộng đồng được hình thành từ tập quán xã hội, được quy định tại khoản 1 điều 211 BLDS. Theo khoản 1 điều 217 Bộ luật Dân sự, “Các chủ sở hữu chung có thể thỏa thuận với nhau về việc quản lý đối với tài sản chung, mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Quyền sở hữu chung đối với tài sản có những đặc trưng khi định đoạt, ví dụ đối với “tài sản thuộc sở hữu chung theo phần thì các chủ sở hữu có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình, tuy nhiên các chủ sở hữu chung theo phần khác có quyền ưu tiên mua đối với tài sản chung”, theo điều 218 Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, điều 218 Bộ luật Dân sự cũng quy định: “Trong thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung. Trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu 9 Tòa án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại. Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại. Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật này”. Còn đối với sở hữu chung hợp nhất, việc định đoạt tài sản chung do các bên đồng chủ sở hữu chung thỏa thuận. Nếu không thoả thuận được có quyền yêu cầu Tòa án gỉai quyết, đối với trường hợp chia tài sản chung cuả vợ chồng thì Tòa án phải vận dụng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết. Theo điều 220 Bộ luật Dân sự, “Sở hữu chung đối với tài sản sẽ chấm dứt khi tài sản chung được các đồng sở hữu chia, hoặc không còn tài sản chung, hoặc có một chủ sở hữu trong các đồng sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung, thường gặp khi các bên chuyển nhượng, tặng cho nhau phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cùng các trường hợp khác do pháp luật quy định”. 1.1.1.2. Khái niệm Quyền sử dụng đất của Hộ gia đình Với đặc điểm là một nước nông nghiệp, cộng đồng dân cư làm nông quây quần trong từng làng xã, HGĐ là một đơn vị dân cư cơ bản của Việt Nam từ chế độ phong kiến đến nay. Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước đã có chính sách giao đất cho các thành viên trong HGĐ. Đất đai với đặc điểm là nguồn lực phát triển kinh tế, tài nguyên quý giá của quốc gia được Nhà nước giao 10 đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ cho người sử dụng đất bao gồm các tổ chức, cá nhân.4 Theo quy định của LĐĐ năm 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu và quản lý thống nhất trên toàn quốc. Người sử dụng đất có quyền sử dụng sau khi Nhà nước trao quyền cho họ.5 Theo Từ điển Luật học năm 2006 thì "QSDĐ là quyền của các chủ thể được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê hoặc được chuyển giao từ chủ thể khác thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho...”. Như vậy QSDĐ là một loại quyền về tài sản, được hình thành trên cơ sở quyền sở hữu của Nhà nước về đất đai. Có nghĩa đây là quyền phái sinh, chỉ xuất hiện khi Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Do là một loại quyền tài sản nên QSDĐ có thể trị giá được bằng tiền và được phép giao dịch trên thị trường. Theo quy định tại điều 5 của Luật đất đai 2013 thì Người sử dụng đất là người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ, hoặc là người nhận chuyển QSDĐ từ người khác. Cũng theo quy định tại điều luật này thì người sử dụng đất có thể là “HGĐ, cá nhân trong nước” theo khoản 3 điều 5 Luật Đất đai 2013. Về lịch sử lập pháp của Việt Nam thì chủ thể sử dụng đất là HGĐ đã được Nhà nước quy định từ LĐĐ 1993. Chủ thể này có nguồn gốc từ việc các hợp tác xã giao đất lại cho các HGĐ sản xuất nông nghiệp căn cứ vào số nhân khẩu trong hộ. Tuy nhiên, khái niệm thế nào là HGĐ sử dụng đất thì luật lại không đề cập đến suốt cả một thời gian dài 20 năm. Cho đến Bộ luật Dân sự 2005, Pháp luật mới có quy 4 Điều 54 Hiến pháp: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Người sử dụng đất được chuyển QSDĐ, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. QSDĐ được pháp luật bảo hộ”. 5 Điều 54 LĐĐ 2013: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao QSDĐ cho người sử dụng đất theo quy định tại luật này”. 11 định cụ thể về tài sản chung của hộ gia đình như sau: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. Tức quyền sử dụng đất của thành viên trong hộ gia đình chỉ được tính khi thành viên đó có đóng góp công sức vào quyền sử dụng đất. Dẫn đến có quan điểm cho rằng thành viên trong hộ là trẻ em đương nhiên không có quyền sử dụng đất6. Mặt khác, cũng có quan điểm cho rằng việc xác định ai là thành viên hộ gia đình phải căn cứ vào hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , không quan trọng thời điểm đất được giao cho hộ là lúc nào7. Để thống nhất, khoản 29 điều 3 Luật Đất đai 2013 ghi rõ: “HGĐ sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thông, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ, nhận QSDĐ”. Như vậy chủ thể HGĐ sử dụng đất sẽ bắt buộc bao gồm tất cả các đặc điểm cơ bản như sau: - Là những người trong HGĐ có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình; và - Đang sống chung trong HGĐ tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ; nhận chuyển QSDĐ; và - Có QSDĐ chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ; nhận chuyển QSDĐ. Quy định này phù hợp với khoản 1 điều 212 BLDS, tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo 6 Https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/vuong-mac-trong-viec-xac-dinh-cac-thanh-vien-doi-voi-quyen-su- dung-dat-cap-cho-ho-gia-dinh, ngày 25/6/2019, truy cập ngày 10/5/2020. 7 Văn bản số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao về việc giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ. 12 lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của bộ luật này và luật khác có liên quan. đình 1.1.2. Tranh chấp chia tài sản chung là Quyền sử dụng đất của hộ gia Cùng với việc hình thành tài sản chung là QSDĐ cuả HGĐ, vì nhiều lý do khác nhau, xu thế chung là các thành viên sẽ tách khỏi quan hệ sở hữu chung để có thể tự định đoạt tài sản theo mong muốn của mình. Từ đó quyền yêu cầu chia tài sản chung là một loại quyền gắn liền với quyền sở hữu chung, ngay khi sở hữu chung xuất hiện thì quyền yêu cầu chia tài sản chung cũng được xác lập. Nó tồn tại ngay cả khi các chủ thể có quyền sở hữu chung không thống nhất với nhau về việc có chia hay không, hoặc chia như thế nào. Nó vẫn tồn tại ngay cả khi một người đồng sở hữu đã chết, lúc đó sẽ gắn với quyền thừa kế của người này. Ngay cả khi tài sản thuộc sở hữu chung có bị tự ý bán mất thì giao dịch đó có thể bị đe dọa khi các thành viên có quyền sở hữu chung không đồng ý. Từ đó Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ án tranh chấp chia tài sản thuộc sở hữu chung. Đối với tài sản chung là QSDĐ, việc chia tài sản có nhiều quy định đặc thù, do đó là một loại quyền tài sản khá đặc biệt. Pháp luật đã quy định tài sản chung là QSDĐ của HGĐ thuộc trường hợp sở hữu chung theo phần, như thế phần của các thành viên trong HGĐ đã được xác lập, khi các thành viên muốn chia thì có thể tự phân chia theo thoả thuận hoặc theo quy định cuả pháp luật. Nếu các thành viên không thoả thuận được và có thành viên nộp đơn khởi kiện đến Tòa án yêu cầu giải quyết tranh chấp, thì tranh chấp chia tài sản chung là QSDĐ bắt đầu phát sinh. Như vậy tranh chấp chia tài sản chung là QSDĐ cuả HGĐ là loại tranh chấp giữa các thành viên của HGĐ yêu cầu Tòa án giải quyết để phân chia QSDĐ của hộ. Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp quy định tại khoản 2 và khoản 9 điều 26 BLTTDS năm 2015. 13 Thực tiễn cho thấy với đặc trưng đương sự trong vụ tranh chấp là những thành viên trong HGĐ tranh chấp với nhau, nên loại án này hoặc là rất dễ, hoặc là vô cùng khó. Sẽ rất dễ vì giữa những người tham gia tranh chấp có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, nên khi có khúc mắc nếu còn tình cảm thì hoà giải rất nhanh. Nhưng phần lớn vụ án thường sẽ phúc tạp vì khi đông thành viên sẽ xuất hiện phe cánh, có những mâu thuẫn về quyền lợi khó chia sẻ, nhất là phía sau một thành viên lúc này sẽ có một gia đình mới, với những nhu cầu mới đôi khi đối nghịch với các thành viên trong hộ còn lại. 1.1.3. Lược sử Pháp luật về chia tài sản chung là Quyền sử dụng đất cuả hộ gia đình Sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 02/9/1945, các quy định về ruộng đất thời thực dân và phong kiến trước đó tại miền Bắc bị xóa bỏ. Năm 1949, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giảm tô và ra chỉ thị chia lại ruộng đất. Năm 1953, Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật cải cách ruộng đất và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo. Hiến pháp năm 1959 ghi nhận các hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu của hợp tác xã, sở hữu cuả người công dân. Tuy nhiên về cơ bản đất đai tại miền Bắc đã được chuyển sang cho tập thể. Tại Miền Nam, sau năm 1959, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã thực hiện Cải cách điền địa lần thứ nhất, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thực hiện Cải cách điền địa lần thứ hai. Về cơ bản không còn thành phần đại địa chủ ở miền Nam Việt Nam, chấm dứt nạn tá điền do nông dân đều được cấp đất. Sau ngày 30/4/1975, về nguyên tắc Nhà nước vẫn công nhận sở hữu tư nhân về đất đai, nhưng hình thức sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước vẫn chiếm ưu thế. Đến năm 1980, Hiến pháp năm 1980, quy định tại điều 18 xác định hình thức sở hữu toàn dân đối với toàn bộ đất đai trên lãnh thổ Việt Nam, xóa bỏ hình thức sở hữu tư nhân đối với đất đai. Trong thời gian này, lịch sử lập pháp chủ yếu chú trọng tổ chức bộ máy nhà nước, pháp luật hình sự, các thông tin lưu trữ chủ yếu thống kê 14 lượng án hình sự, án dân sự các loại chỉ nêu chung chung chứ không có thông tin về loại tranh chấp chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình8. 1.1.3.1. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 2002 Theo LĐĐ năm 1987, hộ thành viên của các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp được hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp giao lại diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp trong số đất được Nhà nước giao sử dụng ổn định, lâu dài để các hộ này được làm kinh tế gia đình. Theo Luật đất đai năm 1987, “hạn mức được quy định như sau:  Đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng miền Trung từ Thanh Hóa đến Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay) : không quá 200 m2.  Trung du, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long: không quá 500 m2..  Miền núi và Tây Nguyên: không quá 1.000 m2.” Theo điều 28 LĐĐ năm 1987, “Hộ nông dân cá thể được nhà nước giao đất ổn định, lâu dài để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp trên cơ sở đất đai đang sử dụng. Hộ thành viên của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp, nghề muối có thể được giao đất chưa sử dụng bởi UBND huyện, quận, khi giao phải xác định rõ mục đích và thời hạn sử dụng”. Theo Điều 35 LĐĐ năm 1987, HGĐ nếu không có nhà ở thì sẽ được nhà nước giao đất ở khu dân cư, “hạn mức như sau:  Đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng miền Trung từ Thanh Hóa đến Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận hiện nay) : không quá 200 m2.  Trung du, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long: không quá 300 m2.  Miền núi và Tây Nguyên: không quá 400 m2”. 8 http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/2185103/lsvapt/59-1980, truy cập ngày 10/5/2020. 15 Về quyền lợi, người sử dụng đất được sử dụng ổn định, lâu dài, có thời hạn hoặc tạm thời theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi giao đất, được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao, được chuyển quyền, nhượng, bán nhà ở, vật kiến trúc khác, cây lâu năm mà người sử dụng đất có được một cách hợp pháp trên đất được giao. Theo quy định tại điều 16 LĐĐ năm 1987, “việc chuyển QSDĐ được thực hiện chỉ khi hộ nông dân vào hoặc ra hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, khi người được giao đất chuyển đi nơi khác hoặc đã chết mà thành viên trong hộ người đó vẫn còn tiếp tục sử dụng đất”. Nếu người được thừa kế nhà ở hoặc chưa có chỗ ở, khi nhận chuyển nhượng nhà ở, sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu đối với nhà ở, thì được QSDĐ ở ngôi nhà đó, theo điều 17 LĐĐ năm 1987. Tóm lại LĐĐ năm 1987 chỉ bàn đến nội dung chủ yếu là các tài sản gắn liền với đất, khi có quyền sở hữu tài sản thì cá nhân mới có QSDĐ. Do đó mọi tranh chấp nếu có đều xoay quanh tài sản gắn liền với đất: nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc cây lâu năm, nếu có phát sinh tranh chấp về loại tài sản này thì Tòa án sẽ giải quyết cả QSDĐ gắn liền tài sản đó. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cho thấy Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu tài sản giữa công dân với nhau. Tranh chấp đất đai giữa cá nhân với nhau hoặc giữa cá nhân với tổ chức do Uỷ ban nhân dân giải quyết. Những tranh chấp liên quan đến ruộng đất được Hội đồng Bộ Trưởng quy định cụ thể trong quyết định số 13- HĐBT ngày 01/02/1989 về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất nảy sinh trong thực tiễn, trong đó có vấn đề hộ nông dân được nhận thêm ruộng trong một số trường hợp như do số nhân khẩu tăng lên, bình quân ruộng thấp, đời sống thực sự khó khăn. Như vậy LĐĐ năm 1987 hạn chế gần như tuyệt đối việc chấp nhận QSDĐ như là quyền tài sản, nếu có giao dịch về QSDĐ thì phạm vi rất hạn hẹp, về giấy tờ thì mặc dù nội dung chính là nhận chuyển QSDĐ nhưng lại ghi là “sang nhượng hoa 16 màu” đối với đất nông nghiệp, hoặc “sang nhượng chỗ ở” nếu là đất ở, từ đó dẫn đến những mầm mống cho các tranh chấp trong tương lai. Hiến pháp năm 1992 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến Pháp năm 1992 đã quy định: “đất đai, rừng núi,….. cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân” (điều 17 Hiến Pháp), “ Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài (điều 18 Hiến Pháp). LĐĐ năm 1993 được ban hành sau đó đã có những thay đổi vô cùng quan trọng. Lần đầu tiên kể từ khi LĐĐ ban hành sau khi đất nước thống nhất quy định HGĐ là một trong những đối tượng được nhà nước giao đất, cho thuê đất, sử dụng ổn định, lâu dài, tại điều 19 LĐĐ năm 1993. HGĐ được chuyển nhượng QSDĐ theo quy định của pháp luật, cụ thể: “HGĐ có quyền chuyển nhượng QSDĐ khi chuyển đi nơi khác, chuyển sang làm nghề khác, không còn khả năng lao động trực tiếp” (điều 73 LĐĐ năm 1993). Việc chuyển nhượng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. HGĐ có thể cho thuê, có thể được thừa kế, chuyển đổi thế chấp QSDĐ theo quy định cuả pháp luật. Khi có tranh chấp đất đai, nếu đất chưa có giấy chứng nhận QSDĐ thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân, nếu đất đã có giấy chứng nhận QSDĐ và tranh chấp tài sản gắn liền với đất thì TAND có thẩm quyền giải quyết, căn cứ điều 38 LĐĐ năm 1993. LĐĐ năm 1993 đã được sửa đổi bổ sung vào các năm 1998 và năm 2001. Điều 31 Luật sửa đổi bổ sung một số điều cuả LĐĐ năm 2001 đã xác định “người sử dụng đất có thể chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng QSDĐ, xác định rõ QSDĐ là một loại quyền tài sản”. BLDS năm 1995 đã quy định đất đai là bất động sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, QSDĐ cũng là di sản thừa kế với thời hiệu mở thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Loại tài liệu

Chuyên Ngành

Nơi xuất bản

Năm

ThS30.008_Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm
Pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm